Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 21/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26 /2023/TLST- HS ngày 01/3/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét sử số: 22/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo: Nguyễn Đoàn L, sinh năm: 1986; HKTT và nơi ở: A, phường C, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Đoàn B (sinh năm: 1964) và bà: Đỗ Thị L (sinh năm: 1964). Vợ: Nguyễn Thị H. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo đầu thú ngày 29/12/2022; bị tạm giữ từ ngày 29/12/2022 đến 07/01/2023. Hiện đang bị tạm giữ trong vụ án khác (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Anh Phạm Bá Đ, sinh năm: 1986, HKTT: xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam (vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h30’ ngày 28/12/2022, Nguyễn Đoàn L đến quán bia số 285 K, phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội Nội gặp anh Phạm Bá D (sinh năm: 1986; HKTT: xã A, huyện B, Hà Nam) để phỏng vấn xin việc làm. Do đông khách nên anh D chưa tiếp được L, bảo L chờ ở khu vực quầy lễ tân. Trong lúc đứng chờ, quan sát quán, L phát hiện 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu vàng của anh D đang để ở quầy lễ tân nên L nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. Đến khoảng 20h30’, quan sát không có người để ý, L đã nhanh tay lấy chiếc điện thoại của anh D cho vào túi áo L đang mặc rồi bỏ đi khỏi quán.

Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, anh Phạm Bá D kiểm tra camera an ninh của quán và phát hiện người lấy điện thoại là Nguyễn Đoàn L, anh D đã gọi vào số điện thoại 0345143xxx mà L đã để lại khi đến phỏng vấn thì L nói sẽ cho anh D chuộc lại chiếc điện thoại với giá 5.000.000 VNĐ (Năm triệu đồng). Sau khi thỏa thuận L thống nhất sẽ cho anh D chuộc điện thoại với giá 3.000.000 VNĐ (Ba triệu đồng), nhưng sau đó anh D không liên lạc được với L nên đã đến Công an phường Thanh Lương để trình báo sự việc.

Sáng 29/12/2022, biết anh Phạm Bá D đã trình báo Cơ quan công an và có camera ghi lại việc L trộm cắp tài sản nên L đã đến trụ sở Công an Phường Thanh Lương đầu thú và giao nộp 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax 256G màu vàng, số Imei 358598938987071 là điện thoại L lấy trộm của anh D và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu LeEco S3 màu vàng là điện thoại của L dùng để liên lạc với anh D.

Ngoài các tài sản Nguyễn Đoàn L giao nộp, cơ quan công an không thu giữ thêm bất cứ tài sản nào khác.

Lời khai của Nguyễn Đoàn L phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, mục đích trộm cắp tài sản của L là để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng xác định: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu LeEco S3 màu vàng đã qua sử dụng là tài sản cá nhân, đã thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã trả lại bị cáo.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 07/KL-HĐ ĐGTS ngày 18/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, màu vàng, bộ nhớ 256 Gb, số IMEI: 358598938987071. Thời điểm định giá tháng 12/2022. Giá trị chiếc điện thoại là 13.000.000 VNĐ (mười ba triệu đồng).

Về trách nhiệm dân sự: bị hại là anh Phạm Bá D đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Tại cáo trạng số: 24 /CT- VKSHBT - HS ngày 27/02/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đoàn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Đoàn L về tội “Trộm cắp tài sản” như cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo L mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Phạm Bá D không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không xét.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Nhà nước về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Đoàn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, kết luận định giá tài sản và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về hành vi phạm tội trộm cắp tài sản là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận những chứng cứ buộc tội của Viện kiểm sát và đề nghị của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án.

Những chứng cứ trên đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20h30’ ngày 28/12/2022, tại khu vực quầy lễ tân quán bia số 285 K, phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Đoàn L có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại Iphone 12 Promax màu vàng đã qua sử dụng, trị giá 13.000.000 VNĐ (Mười ba triệu đồng) của anh Phạm Bá D. Tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại. Sau khi nhận được tài sản, anh D không còn có yêu cầu đề nghị gì.

Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra không lớn nhưng gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhận thức nhưng không tuân thủ, cố ý thực hiện hành vivi phạm pháp luật. Mặc dù đã bị phát hiện nhưng không tự giác giao trả tài sản mà còn yêu cầu bị hại nộp tiền để chuộc lại tài sản, thể hiện sự coi thường pháp luật cao độ nên cần cách lybị cáo khỏi xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình phạt cũng xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, để cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng kết thúc vụ án nên để cho bị cáo được hưởng một phần tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi biết bị hại đã trình báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nhận thức và đến trụ sở Công an phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng để đầu thú, tự nguyện giao nộp lại tài sản đã trộm cắp, giúp cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng thu hồi tài sản trả lại bị hại, kết thúc sớm vụ án nên cho bị cáo được hưởng tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là là anh Phạm Bá D không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không xem xét.

Về chiếc điện thoại nhãn hiệu leEco S3 màu vàng nhạt đã qua sử dụng là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đoàn L cũng xác nhận đã nhận lại điên thoại và không có ý kiến gì.

Bị cáo Nguyễn Đoàn L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đoàn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Nguyễn Đoàn L 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt để thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 29/12/2022 đến ngày 07/01/2023.

Căn cứ Điều 136; Điều 331; Điều 33 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 này 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Bị cáo Nguyễn Đoàn L phải nộp 200.000 VNĐ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2023/HS-ST

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về