Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 03/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 03 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyn Minh H, Sinh ngày 07/8/2001 tại Quảng Bình. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã Q, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Q, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Nguyễn Xuân H (Đã chết) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1971; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trú tại: Thôn T, xã Q, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Gia đình có 03 anh chị em, H là con thứ hai trong gia đình. Chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 25/02/2022 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hồng Vĩnh H2, sinh năm 1981, địa chỉ: Tổ dân phố X, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn T, xã Q, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Anh Nguyễn Xuân H1, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, anh Hồng Vĩnh H2 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen, BKS 73G1-242.76 đến phòng trọ của chị Nguyễn Thị P tại thôn T, xã Q. H2 để xe tại phòng trọ của chị P và qua nhà hàng xóm chơi. Đến khoảng 19 giờ 20 cùng ngày, Nguyễn Minh H là con trai của chị P nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô nói trên. H đã lấy chìa khóa xe mô tô của anh H2 để trên tủ quần áo trong phòng trọ của chị P, mở khóa và điều khiển xe đến nhà anh Nguyễn Xuân H1 ở thôn B, xã L để xe lại làm tin và mượn số tiền 2.500.000 đồng. Anh H1 không biết tài sản do H trộm cắp mà có. Số tiền trên H đã trả nợ và tiêu xài hết. Sau khi phát hiện xe mô tô bị mất anh H2 đã đến cơ quan Công an trình báo.

Tại Kết luận định giá số 77/KL-HĐĐG ngày 26/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen, BKS 73G1 - 242.76, số khung 3 9 0 4 H Y 6 4 0 9 9 1, số máy J A3 9 E 0 6 1 5 8 3 4, xe đã qua sử dụng có giá trị 12.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại cho anh Hồng Vĩnh H2 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen, BKS 73G1-242.76.

Trách nhiệm dân sự: Anh Hồng Vĩnh H2 đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường dân sự. Anh Nguyễn Xuân H1 không yêu cầu H trả lại số tiền 2.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSĐH-KT ngày 29 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới truy tố bị cáo Nguyễn Minh H ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã phát biểu lời luận tội, chứng minh và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Nguyễn Minh H đã thực hiện. Vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự: đề nghị xử phạt Nguyễn Minh H từ 07 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 14 tháng đến 18 tháng. Về án phí buộc bị cáo chịu theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo Nguyễn Minh H đã thừa nhận toàn bộ hành vi Trộm cắp tài sản đúng như Bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương để có cơ hội giúp đở gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đồng Hới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân thành phố Đồng Hới, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa vắng mặt bị hại, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, và đã có đơn xin vắng mặt tại phiên toà. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét về hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Minh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại cũng như phù hợp với các tài liệu, vật chứng đã thu thập có tại hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, địa điểm, số lượng tài sản và quá trình diễn biến phạm tội. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 28/12/2021 tại phòng trọ của chị Nguyễn Thị P ở thôn T, xã Q, Nguyễn Minh H đã thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 73G1-242.76 của anh Hồng Vĩnh H2, trị giá 12.000.000 đồng. Như vậy đủ cơ sở kết luận Nguyễn Minh H phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã truy tố và kết luận của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Đồng Hới, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người trưởng thành, có sức khỏe nhưng không chịu tu dưỡng, làm ăn lương thiện để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do tham lam tư lợi cá nhân nên vẫn bất chấp hậu quả, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của anh H2. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với mức độ và hậu quả mà hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tuy vậy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt cho bị báo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo là cũng đủ sức răn đe và cải tạo bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo vừa cải tạo vừa lao động để chăm lo, nuôi sống bản thân và gia đình.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại cho anh Hồng Vĩnh H2 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen, BKS 73G1-242.76.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Hồng Vĩnh H2 đã nhận lại xe, không yêu cầu bồi thường dân sự. Anh Nguyễn Xuân H1 không yêu cầu H trả lại số tiền 2.500.000 đồng. Do đó, HĐXX không xem xét.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản".

2. Về Điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 03/6/2022.

Giao bị cáo Nguyễn Minh H cho UBND xã Q, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (03/6/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hạn trong 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

(Đã giải thích chế định của án treo) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

375
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2022/HS-ST

Số hiệu:32/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về