Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:

* Nguyễn Thanh T - Sinh ngày 16.12.2000 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 3, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở: Khu tái định cư Hòa Liên 4, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh H (sinh năm 1973) và bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1980); Vợ con: Không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/12/2022 bị Công an quận L, TP Đà Nẵng xử phạt tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) về hành vi Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cá nhân, tổ chức.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/10/2022, sau đó chuyển tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

* Phạm Thanh L - Sinh ngày 29.4.2004 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Chỗ ở: K32/11 Đ, phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Thanh L (sinh năm 1973) và bà Nguyễn Thị T (sinh năm: 1977); Vợ con: Không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/10/2022, sau đó chuyển tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Công ty Cổ phần tập đoàn C; địa chỉ: Số 109 đường T, phường K, quận C, TP Đà Nẵng.

Đại diện theo pháp luật: Ông Công Thế A – Chức danh: Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn H – sinh năm 1995; địa chỉ: K47 H, phường M, quận L, TP Đà Nẵng (Theo giấy ủy quyền ngày 02.10.2022). Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Trần Xuân T – sinh năm 1998; địa chỉ: Số 625 đường A, phường B, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Đình H – sinh năm 1990; địa chỉ: Số 62 đường Đ, phường B, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thụy N – sinh năm 1994; địa chỉ: Số 62 đường Đ, phường B, quận L, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Anh Lê Đức Q – sinh năm 2001; nơi ĐKHKTT: Xóm 9, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An; địa chỉ: Thôn Q, khu tái định cư Hòa Liên 4, xã H, huyện H, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Ông Đoàn Ngọc A – sinh năm 1960; địa chỉ: Số 308 đường N, phường H, quận C, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L là công nhân được Công ty Cổ phần Tập đoàn C (Địa chỉ trụ sở tại: 109 đường T, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng, người đại diện theo pháp luật: Ông Công Thế A – Giám đốc) thuê làm hệ thống điều hòa tại công trình xây dựng Nhà ở xã hội B (địa chỉ: Lô B4-1, dự án Khu đô thị xanh B, phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng). T biết vào buổi tối, tại Container chứa vật liệu xây dựng của Công ty Cổ phần Tập đoàn C không có người trông giữ.

Vào lúc 23 giờ ngày 30/9/2022, tại phòng trọ của Nguyễn Thanh T ở địa chỉ: Khu tái định cư Hòa Liên 4, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, T và L tổ chức ăn nhậu. Trong lúc ăn nhậu, do cần tiền tiêu xài nên T đã rủ L đến công trình Nhà ở xã hội B để trộm cắp ống đồng (loại dùng trong lắp ráp hệ thống điều hòa) bán lấy tiền tiêu xài thì L đồng ý. Đến khoảng 01 giờ 30 ngày 01/10/2022, T lấy 01 cái búa ở trong phòng trọ của T đem theo, sau đó điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu xám đen bạc BKS 37K1-xxxxx (xe của T) chở L ở phía sau đến công trình Nhà ở xã hội B để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi thì T dừng xe và để xe mô tô tại đây. Sau đó, T và L đi bộ vào trong công trình. Trên đường đi, T nhặt được 01 cây xà beng và cầm theo. Khi đến vị trí đặt thùng Container chứa vật liệu xây dựng dùng để thi công công trình của Công ty Cổ phần Tập đoàn C, T nói L đứng ngoài để cảnh giới, còn T sử dụng xà beng và búa phá vỡ ổ khóa (ổ khóa hiệu Việt Tiệp dùng để khóa cửa Container). Rồi T cùng với L mở cửa Container, đi vào phía trong lấy trộm 06 thùng ống đồng (gồm 860 mét ống đồng loại LWC 6.35x0.71 và 135 mét ống đồng loại LWC 12.7x0.71) và cùng nhau chở số ống đồng trộm được đem về phòng trọ của T cất giấu trong chiếc rương bằng thiếc của T. Sau đó, cả hai chở nhau đi chơi điện tử ở tiệm Internet trên đường A, phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng đến 06 giờ cùng ngày thì cả hai về phòng trọ của Phạm Thanh L ở địa chỉ: K32/11 đường Đ, phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng để ngủ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T mượn xe mô tô của Phạm Thanh L đi về lại phòng trọ của mình.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T nói L đến phòng trọ của mình để cùng nhau chở số ống đồng trộm được đi bán, nhưng L không có xe nên không đến được. Khoảng 19 giờ cùng ngày, T nhờ Lê Đức Q (Sinh năm 2001; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm 9, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An; đăng ký tạm trú tại: Khu tái định cư Hòa Liên 4, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; là bạn ở cùng phòng trọ với Nguyễn Thanh T) điều khiển xe mô tô của L, còn T điều khiển xe mô tô của mình đi đến phòng trọ của Phạm Thanh L để trả xe cho L. Khi đang đi trên đường đi trả xe thì T dò hỏi và biết được tại cửa hàng bán đồ điện lạnh ở địa chỉ số 625 đường A, phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng do ông Trần Xuân T (Sinh năm 1998, trú tại địa chỉ trên) làm chủ có thu mua ống đồng nên T và Q quay về phòng trọ của T lấy thùng thiếc chứa ống đồng trộm được và chở đến cửa hàng trên để bán. Khi quay lại cửa hàng trên thì T vào bên trong cửa hàng thỏa thuận giá cả, còn Q chở thùng thiếc rỗng về lại phòng trọ. Tại cửa hàng điện lạnh, sau khi được biết số lượng ống đồng nhiều và không đủ tiền mua nên ông Tiến đã liên hệ và giới thiệu cho vợ chồng ông Nguyễn Đình H (Sinh năm 1991) và bà Nguyễn Thụy N (Sinh năm 1994, cùng trú tại số 62 đường Đ, phường B, quận L, thành phố Đà Nẵng) mua. Giữa hai bên thỏa thuận giá mua bán ống đồng như sau: 860 mét ống đồng loại LWC 6.35x0.71 với giá 15.800.000 đồng, 135 mét ống đồng loại LWC 12.7x0.71 với giá 4.500.000 đồng. Tổng số tiền mà T đã nhận được qua việc bán ống đồng là 20.300.000 đồng. Việc T đem ống đồng đi bán lúc nào, đi cùng ai và bán cho ai, ở đâu thì L hoàn toàn không biết. Sau khi nhận số tiền 20.300.000 đồng, T trả nợ cho người quen ở Nghệ An là 12.000.000 đồng, đưa cho L 3.000.000 đồng, trả tiền ăn nhậu vào ngày 01 và 02 tháng 10 năm 2022 hết 2.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân và còn lại 1.665.000 đồng. Sau khi nhận được 3.000.000 đồng từ T, L tiêu xài cá nhân và còn lại 1.500.000 đồng.

Ngày 10/10/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu ban hành Kết luận số 121/KL-HĐĐGTS xác định: 860 mét ống đồng loại LWC 6.35 x 0.71 có giá 22.798.600 đồng, 135 mét ống đồng loại LWC 12.7 x 0.71 có giá 7.618.050 đồng. Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 30.416.650 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 ổ khóa Việt Tiệp đã hư hỏng; 01 cây búa có đầu búa bằng kim loại, cán bằng gỗ, tổng chiều dài 38cm; 01 cây xà beng bằng kim loại dài 53cm; 01 xe mô tô hiệu Honda màu xám đen bạc biển kiếm soát 37K1-xxxxx, số khung RLHHC123XDY590379, số máy HC12E-5590413; số tiền 3.165.000 đồng; 860 mét ống đồng loại LWC 6.35 x 0.7 và 135 mét ống đồng loại LWC 12.7 x 0.71.

Tại Cáo trạng số 10/CT-VKSLC, ngày 16 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Thanh L từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Công ty cổ phần tập đoàn C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Đình H và Nguyễn Thụy N đã được bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập xem xét.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 ổ khóa Việt Tiệp đã hư hỏng; 01 cây búa, cán bằng gỗ, tổng chiều dài 38 cm; 01 cây xà beng dài 53 cm.

- Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô hiệu Honda màu xám đen bạc BKS 37K1-xxxxx, số khung RLHHC123XDY590379, số máy HC12E- 5590413 của Nguyễn Thanh T.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo cáo Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo xác nhận cáo trạng truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội; ăn năn hối cải, mong muốn HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 01/10/2022, tại công trình xây dựng Nhà ở xã hội B tại địa chỉ: Lô B4-1, dự án Khu đô thị xanh B Lakeside, phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L lén lút chiếm đoạt 860 mét ống đồng loại LWC 6.35x0.71 và 135 mét ống đồng loại LWC 12.7x0.71 của Công ty Cổ phần tập đoàn C. Theo Kết luận số 121/KL-HĐĐGTS ngày 10/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 30.416.650 đồng.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng số 10/CT-VKSLC, ngày 16 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất vụ án, vai trò, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Các bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài thỏa mãn nhu cầu cá nhân nhưng lại lười nhác lao động nên đã lợi dụng thời điểm đêm khuya, bẻ khóa và đột nhập vào Container chứa vật liệu xây dựng để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm.

Về vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy: Đây là trường hợp đồng phạm giản đơn vì giữa các bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc từ trước cũng như không phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể. Bị cáo T là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ, phương tiện, phá vỡ ổ khóa và trực tiếp thực hiện hành vi đột nhập, trộm cắp tài sản; sau khi trộm cắp được ống đồng thì bán và chia tiền lại cho L. Bị cáo L khi được T rủ trộm cắp tài sản thì đồng ý, đứng ngoài cảnh giới để T đột nhập để trộm cắp tài sản, cùng T chở ống đồng trộm được về cất giấu.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với các bị cáo:

Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

HĐXX xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người liên quan, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bị cáo T có ông bà nội là người có công cách mạng, bị cáo L có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có ông nội là liệt sĩ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân HĐXX xét thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có điều kiện cải tạo dưới sự giám sát của pháp luật mới đảm bảo tính răng đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội. Ngoài ra, mức hình phạt của bị cáo T phải cao hơn so với bị cáo L nhằm đảm bảo tính phân hóa của tội phạm, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo. Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, đại diện người bị hại Công ty Cổ phần tập đoàn C khai nhận đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu gì thêm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Đình H và Nguyễn Thụy N vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện đã được gia đình bị cáo bồi thường và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Ngày 27/10/2022, Cơ quan điều tra ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 10/QĐ-CSĐT trả lại: 860 mét ống đồng loại LWC 6.35x0.71 và 135 mét ống đồng loại LWC 12.7x0.71 cho ông Công Thế A – Giám đốc, đại diện theo pháp luật của công ty Cổ phần Tập đoàn C. Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xử lý như vậy là có căn cứ nên HĐXX không xem xét.

Ngày 13/12/2022, Cơ quan điều tra ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 123/QĐ-CSĐT trả lại: số tiền 3.165.000 đồng cho ông Nguyễn Đình H. Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu xử lý như vậy là có căn cứ nên HĐXX không xem xét.

Đối với xe mô tô hiệu Honda màu xám đen bạc BKS 37K1-xxxxx, số khung RLHHC123XDY590379, số máy HC12E-5590413 là phương tiện mà Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần phải tịch thu sung công quỹ nhà nước theo như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Đối với 01 cây búa, cán bằng gỗ, tổng chiều dài 38cm; 01 cây xà beng dài 53cm là công cụ mà Nguyễn Thanh T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, HĐXX xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần phải tịch thu, tiêu hủy theo như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 ổ khóa Việt Tiệp đã hư hỏng, HĐXX xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần phải tịch thu, tiêu hủy theo như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự

[7] Đối với Trần Xuân T, Nguyễn Đình H, Nguyễn Thụy N: Khi mua ống đồng do Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L trộm cắp, ông T, ông H và bà N không biết đây là tài sản do phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

Đối với Lê Đức Q: Quá trình điều tra ban đầu, Công an phường N đã lấy lời khai Q. Ban đầu, Q khai nhận không biết số ống đồng đựng trong thùng thiếc của Nguyễn Thanh T là tài sản do phạm tội mà có. Sau khi Công an phường N triệu tập làm việc thì Q mới biết đó là tài sản mà T trộm cắp. Ngày 17/10/2022, Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu tiến hành xác minh tại địa chỉ phòng trọ ở khu tái định cư Hòa Liên 4, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng xác định: ngày 10/10/2022, Lê Đức Q và đối tượng tên Tỵ đã trả phòng và hiện đang ở đâu, làm gì không rõ. Tiến hành xác minh tại địa chỉ nơi đăng ký thường trú của Lê Đức Q ở xóm 9, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An vào các ngày 21/10/2022 và 18/11/2022 xác định: Lê Đức Q có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên nhưng thời gian qua, Q đi làm xa nên không có mặt tại địa phương, hiện Q ở đâu, làm gì không rõ. Cơ quan điều tra chưa thể tiến hành lấy lời khai để làm rõ hành vi giúp Nguyễn Thanh T chở ống đồng đi bán. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là có cơ sở.

Đối với đối tượng tên Tỵ ở cùng phòng trọ với Nguyễn Thanh T và Lê Đức Q: Tại biên bản xác minh ngày 17/10/2022 của Cơ quan điều tra ở địa chỉ phòng trọ xác định: Đối tượng tên Tỵ đã trả phòng, hiện đi đâu, làm gì không rõ. Đến nay, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của Tỵ. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là có cơ sở.

Đối với hành vi phá hỏng 01 ổ khóa hiệu Việt Tiệp của Nguyễn Thanh T: ngày 10/10/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu ban hành Kết luận số 121/KL-HĐĐGTS xác định: ổ khóa Việt Tiệp hiện trạng bị hư hỏng có giá trị 20.000 đồng. Ngày 29/12/2022, Cơ quan điều tra ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1041/QĐ-XPVPHC xử phạt Nguyễn Thanh T số tiền 4.000.000 đồng về hành vi Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Xét thấy, hành vi này của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự nên Cơ quan điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có cơ sở.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, mỗi bị cáo Nguyễn Thanh T và Phạm Thanh L phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thanh T Phạm Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/10/2022.

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Thanh L 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/10/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

2.1. Tịch thu sung công quy nhà nước xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu xám đen bạc, biển kiểm soát: 37K1-xxxxx, số khung RLHHC123XDY590379, số máy HC12E-5590413 của Nguyễn Thanh T.

2.2. Tịch thu tiêu hủy: 01 cây búa, cán bằng gỗ, tổng chiều dài 38cm; 01 cây xà beng dài 53 cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp đã hư hỏng.

(Toàn bộ vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14 tháng 02 năm 2023 giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu và Công an quận Liên Chiểu).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Mỗi bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Thanh L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; riêng những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về