Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2023/TLST-HS ngày 22/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2023/QĐXXST-HS ngày 30/5/2023, đối với bị cáo: Nguyễn Văn T; Giới tính: Nam; sinh năm 1997, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú: Số X, Chung cư Hưng Phú, phường 10, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 0/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trương Thanh H và bà Nguyễn Thị H; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bản án số 44/HSST ngày 26/5/2022 Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và tiền thu lợi bất chính.

Tiền sự: không;

Nhân thân: Bản án số 281/2014/HSST ngày 23/12/2014 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/3/2023 cho đến nay.

Bị hại: Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 2003 Địa chỉ: Tổ 3, khu phố Mỹ Hòa, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Tạm trú: Số Z Lê Văn Lương, ấp 3, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 16/3/2023, Đỗ Văn Lâm (không rõ nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, Vario, màu đen (không rõ biển số) đến đường Lê Văn Lương, gần khu vực cầu Rạch Đĩa 1, thuộc ấp 5, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh để gặp Nguyễn Văn T. Tại đây, Lâm rủ T đi tìm tài sản là xe mô tô để lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài, T đồng ý.

Do T biết đường đi ở huyện Nhà Bè nên T điều khiển xe chở Lâm đi từ đường Lê Văn Lương thuộc xã Phước Kiển đến xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè để tìm tài sản lấy trộm. Khi đi đến trước tiệm tóc Thanh Tùng – Địa chỉ: 1684 Lê Văn Lương, ấp 3, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè thì Lâm phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic, biển số  68D1-563.xx, của anh Nguyễn Ngọc H đang đậu trước cửa tiệm, Lâm thông báo cho T biết. Lúc này, T điều khiển quay đầu xe hướng lên Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh cách vị trí xe mô tô biển số  68D1-563.xx của anh H đang đậu khoảng 30 mét thì T dừng xe lại. Khi đó, T bước xuống xe kêu Lâm ở ngoài giữ xe và cảnh giới để T trực tiếp vào lấy trộm xe. Lâm đưa cho T một bộ dụng cụ dùng để bẻ phá khóa xe (đoản), T đi bộ lại vị trí chiếc xe, thấy xe không khóa cổ nên dắt xe đi vào hẻm 1676 thuộc ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè (cách vị trí đậu xe khoảng 20m) dùng dụng cụ phá khóa xe, còn Lâm ngồi trên xe mô tô Vario ở trước hẻm 1676 để cảnh giới, đồng thời nếu bị phát hiện thì T lên xe Lâm đợi sẵn để cùng nhau chạy thoát. Khi T đang phá khóa xe thì dụng cụ bị gãy, một đầu dính vào ổ khóa xe. Do không mở được khóa xe nên T kêu Lâm điều khiển xe vừa lấy trộm, còn T điều khiển xe của Lâm để đẩy xe trên. Khi cả hai đẩy xe đến khu vực cầu Long Kiển thuộc ấp 2, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè thì xe Vario do T điều khiển va chạm với xe ô tô của anh Trần Minh Hải nên T bị anh Hải giữ lại để giải quyết. Cùng lúc này, anh H và anh Đỗ Thanh T đi tìm xe bị mất trộm và phát hiện xe mô tô biển số  68D1-563.xx của anh H đang đậu bên lề đường nên đã cùng anh Hải giữ T lại vì nghi ngờ T là người đã lấy trộm xe mô tô của anh H. Riêng Lâm đã điều khiển xe mô tô Vario của mình chạy thoát.

Bản Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nhà Bè kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Sonic, màu đỏ - trắng - đen, biển số:  68D1-563.xx, số khung: 1111KK196354; số máy: KB11E1196276, tình trạng xe đã qua sử dụng, có giá trị là 35.000.000 (ba mươi lăm triệu) đồng.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS-NB ngày 16/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận:

Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại (đoản phá khóa 8), có 01 đầu lục giác, 01 đầu dẹp và bị gãy dài khoảng 4cm; 01 mũ bảo hiểm; 01 áo khoác và 01 quần Jean. Về dân sự: Anh Nguyễn Ngoc H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường dân sự nên miễn xét.

Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 15 giờ ngày 16/3/023, Nguyễn Văn T cùng đồng phạm là Đỗ Văn Lâm đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô Honda Sonic, biển số  68D1-563.xx của anh Nguyễn Ngọc H tại trước tiệm tóc Thanh Tùng, số 1684 Lê Văn Lương, ấp 3, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 35.000.000 (ba mươi lăm triệu) đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đã bị đưa ra xét xử, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân, vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của từng bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì có thái độ khai báo thành khẩn.

[4] Về xử lý vật chứng:

[4.1] 01 đoạn kim loại (đoản phá khóa 8), bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4.2] 01 nón bảo hiểm màu trắng, 01 áo khoác màu đỏ, 01 quần Jeans dài màu đen thu giữ của bị cáo, không phải là vật chứng của vụ án nhưng bị cáo không nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Sonic, bị cáo lấy trộm của anh Nguyễn Ngọc H, đã được cơ quan điều tra thu hồi trả lại cho anh H. Quá trình bị cáo phá khóa có hỏng ổ khóa nhưng anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên, Hội đồng xét xử không xét.

[6] Đối với Đõ Văn L là đồng phạm cùng Nguyễn Văn T nhưng do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/3/2023.

[2] Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 đoạn kim loại (đoản phá khóa 8), có 01 đầu lục giác, 01 đầu dẹp và bị gãy dài khoảng 4cm; 01 nón bảo hiểm màu trắng, hiệu PIAGGIO; 01 áo khoác màu đỏ - xám, hiệu LOSHIP, 01 quần Jean dài, màu đen (tất cả đều đã qua sử dụng) (Toàn bộ bộ vật chứng theo phiếu nhập kho số 2023-NK037 ngày 25/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh).

[3] Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về