Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 151/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 136/2021/HS-ST ngày 13 tháng 07 năm 2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2021/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 07 năm 2021; Thông báo về việc không mở phiên tòa số 01/2021/TB-TA ngày 26 tháng 07 năm 2021 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132A/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 09 năm 2021, đối với bị cáo:

- Họ và tên: NGUYỄN HỮU T, sinh ngày 13/03/2005, tại Hà Nội; Nơi thường trú: Đội x, thôn Kh, xã Ng, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Giới tính:

Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Hữu L (Sn1960, chết); Con bà Vũ Thị S (Sn1960); Theo Danh bản, chỉ bản số 335 lập ngày 30 tháng 05 năm 2021 của Công an huyện Đ, bị cáo không có tiền án; Có 01 tiền sự:

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, mức phạt: Cảnh cáo; Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp theo pháp luật của bị cáo: Bà Vũ Thị S, sinh năm 1960 (Là mẹ đẻ bị cáo); Trú tại: Thôn Kh, xã Ng, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đỗ Thị H - Luật sư của Văn phòng Luật sư Bảo T, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (Là Trợ giúp viên pháp lý theo Quyết định số 231/CV-ĐLS ngày 15 tháng 05 năm 2021 của Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội). Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1983; Trú tại: Số Y, đường Thiết bị điện, Tổ Z, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu T thường đến cửa hàng Internet P (địa chỉ tại: Tổ 16, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội) do anh Nguyễn Tấn Đ (sinh năm: 1983; Trú tại: Tổ Z, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội) là chủ cửa hàng chơi trò chơi điện tử. Quá trình chơi tại cửa hàng, T nảy sinh ý định trộm cắp linh kiện điện tử của máy tính bán lấy tiền tiêu sài.

Khoảng 08h00’ ngày 22 tháng 04 năm 2021, Nguyễn Hữu T một mình đi bộ tới cửa hàng Internet P, mục đích lợi dụng sơ hở của chủ cửa hàng để trộm cắp tài sản. Tại cửa hàng có 4 người đang chơi trò chơi điện tử, dãy máy bên phải (hướng từ cửa vào), T chọn vị trí máy số 27 khuất tầm nhìn của mọi người trong cửa hàng và tầm quan sát của camera. Chơi điện tử đến khoảng 09h00’ cùng ngày, T quan sát thấy không có chủ cửa hàng trông coi, những người chơi ở trong cửa hàng đang tập trung chơi điện tử không để ý xung quanh nên T cúi người xuống, dùng tay phải bẻ khóa tủ đựng dàn máy CPU của máy tính số 27. T mở tủ, lần lượt tháo dỡ các linh kiện của máy tính gồm 01 card màn hình nhãn hiệu Gigabyte GV- N1060WF2OC, dung lượng 3GB; 01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100 để lên mặt chiếc ghế ngồi bên phải vị trí ngồi, rồi tiếp tục tháo dỡ 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8GB nhãn hiệu King Ston. Đúng lúc này, anh Nguyễn Tấn Đ đi vào kiểm tra, phát hiện và giữ T lại, trình báo Công an thị trấn Đ thuộc Công an huyện Đ. Công an thị trấn Đ lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, tạm giữ tang vật, đưa Tùng về trụ sở làm việc.

Vật chứng tạm giữ của Nguyễn Hữu T gồm:

+ 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV-N1060WF2OC, dung lượng 3Gb.

+ 01 chíp máy tính nhãn hiệu Inter core i3-8100.

+ 01 RAM máy tính nhãn hiệu Kingston, dung lượng 8Gb.

+ 01 ổ khóa kim loại màu vàng đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 142/HĐĐGTS ngày 22 tháng 04 năm 2021 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ, kết luận: 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE, GV-N1060WF2OC có giá 3.800.000 đồng; 01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100 có giá 2.000.000 đồng; 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8Gb, nhãn hiệu Kingston có giá 500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là: 6.300.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được.

Đối với 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV- N1060WF2OC-3GB; 01 chíp máy tính nhãn hiệu Inter core i3-8100; 01 RAM máy tính nhãn hiệu Kingston 8Gb; 01 ổ khóa kim loại màu đồng đã tạm giữ, đều là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tấn Đ. Ngày 10 tháng 05 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trên bằng hình thức trao trả cho anh Nguyễn Tấn Đ. Anh Đ nhận lại tài sản, không đề nghị bồi thường gì về dân sự, đề nghị xử lý nghiêm Nguyễn Hữu T trước pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và xác định: Khoảng 09h00’ ngày 22 tháng 04 năm 2021, tại cửa hàng Internet P của anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1983, ở địa chỉ: Số X, Tổ Y, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội, bị cáo trộm cắp: 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV-N1060WF2OC; 01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100; 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8Gb, nhãn hiệu Kingston có trị giá tổng cộng là: 6.300.000 đồng chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị chủ cửa hàng anh Đ phát hiện bắt quả tang và báo Công an thị trấn Đ đến làm việc, đưa bị cáo về trụ sở để giải quyết. Bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật và hứa sửa chữa để được hưởng khoan hồng của Nhà nước.

Bản cáo trạng số 132/CT-VKS-ĐA ngày 09 tháng 07 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 22 tháng 04 năm 2021, tại cửa hàng Internet P của anh Nguyễn Tấn Đ, địa chỉ: Số X, Tổ Y, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Hữu T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Đ là: 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV- N1060WF2OC; 01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100; 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8Gb, nhãn hiệu Kingston có trị giá tổng cộng là: 6.300.000 đồng bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về hình phạt chính: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51;

Điều 54; Điều 90; Điều 91; Điều 101 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 04 đến 06 tháng tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền do bị cáo là người dưới 18 tuổi.

+ Về dân sự và vật chứng: Không phải giải quyết.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu T sau khi đánh giá, phân tích nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo đã xác định việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ty nhiên, do bị cáo phạm tội khi mới 16 tuổi 01 tháng 09 ngày, có hoàn cảnh gia đình bố chết sớm, mẹ bị bệnh hiểm nghèo; Bị cáo trộm cắp tài sản nhưng bị chủ sở hữu phát hiện ngay nên phạm tội chưa đạt, không gây thiệt hại gì. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm h, p, s khoản 1 Điều 51;

Điều 57; Điều 91 và Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo được cải tạo không giam giữ để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, tiếp tục học tập sớm trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp theo pháp luật của bị cáo, người bào chữa và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mặt khác, còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Hành vi bị cáo lén lút trộm cắp tài sản là 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV-N1060WF2OC; 01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100; 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8Gb, nhãn hiệu Kingston có trị giá tổng cộng là: 6.300.000 đồng vào hồi 09h00’ ngày 22 tháng 04 năm 2021 tại cửa hàng Internet P, thuộc địa chỉ: Số X, Tổ Y, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội của anh Nguyễn Tấn Đ đã vi phạm khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức coi thường pháp luật, trật tự kỷ cương xã hội, lười lao động và tham lam tư lợi nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận tội, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử; Bị cáo phạm tội khi mới 16 tuổi 01 tháng 09 ngày thuộc trường hợp dưới 18 tuổi là cơ sở để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ty nhiên, ngoài lần phạm tội này, bị cáo còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là linh kiện điện tử của quán NET khác bị Công an huyện Đ xử lý hành chính với mức phạt là cảnh cáo ngày 30 tháng 11 năm 2020 chưa hết thời hiệu, cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, không có ý thức sửa chữa sai lầm, do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo nói riêng và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

Điều 101. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, … nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Đối chiếu với quy định nêu trên, xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, trường hợp bị cáo phạm tội khi đủ 18 tuổi thì xử phạt bị cáo 06 tháng là phù hợp. Ty nhiên, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng mức hình phạt tù bằng ba phần tư mức hình phạt đó và bằng 04 tháng tù là phù hợp.

[3]. Về hình phạt bổ sung:

Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Đối chiếu với quy định nêu trên, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên không phạt tiền bị cáo.

[4]. Về dân sự: Bị hại anh Nguyễn Tấn Đ có lời khai xác định: Tài sản của anh gồm: 01 card màn hình máy tính nhãn hiệu GIGABYTE GV-N1060WF2OC;

01 chip máy tính nhãn hiệu Intel core i3-8100; 01 thanh RAM dd ram 4, dung lượng 8Gb, nhãn hiệu Kingston bị Nguyễn Hữu T trộm cắp có trị giá theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản là 6.300.000 đồng, anh giao nộp cho cơ quan Công an để phục vụ công tác điều tra. Ngày 10 tháng 05 năm 2021, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh nhận lại đầy đủ, không bị thiệt hại gì nên anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Như vậy, về phần dân sự trong vụ án này Tòa án không phải giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa và bị hại có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

[7]. Quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án của Viện kiểm sát về cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Quan điểm của người bào chữa về áp dụng hình phạt đối với bị cáo như nêu trên không phù hợp với đánh giá, nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Về hình phạt chính: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Khoản 6 Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo NGUYỄN HỮU T 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

+ Về hình phạt bổ sung: Không.

+ Về dân sự: Không phải giải quyết.

+ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

+ Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo, người đại diện hợp pháp theo pháp luật của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại anh Nguyễn Tấn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2021/HS-ST

Số hiệu:151/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về