Bản án về tội trộm cắp tài sản số 149/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 149/2022/HS-PT NGÀY 02/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Dương Ngọc H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2022/HS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Dương Ngọc H, sinh năm 1988, tại Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; Nơi ĐKTT: Khu phố 4, phường Dương Đ, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: ấp SĐ, xã DT, thành phố PQ, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Tấn T và bà Nguyễn Thị N. Bị cáo đã từng chung sống như vợ chồng với ông Võ Hoàng T và ông Ngô Thanh S, nhưng đều không đăng ký kết hôn và hiện nay không còn sống chung với ông T và ông Sang; Con: 02 người; lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không (Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo Hằng: Ông Võ Quang Th - Luật sư Văn phòng Luật sư Võ Quang Th thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên Dương Ngọc H đi đến tiệm vàng giả vờ mua vàng và lợi dụng sự sơ hở của nhân viên bán vàng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là vàn, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 13 giờ ngày 30 phút ngày 14/10/2021, Dương Ngọc H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 68P1 - xxx.xx mượn của anh Đoàn Quốc N, chạy từ nhà của mình đến tiệm vàng Kim Thạnh 2 tại số 223, đường Nguyễn Trung Trực, khu phố 5, phường Dương Đ, thành phố Phú Quốc, do bà Võ Thị Th làm chủ, gặp nhân viên bán vàng là chị Nguyễn Thị Cẩm Tú, H giả vờ hỏi mua vàng, chị Tú đưa 01 bộ vòng ximen gồm 09 chiếc, loại vàng 18K, trọng lượng 05 chỉ cho H xem. Lợi dụng lúc chị Tú mất cảnh giác, H dùng bao tay đè lên vàng, sau đó để 02 tay lên bao tay nhằm tránh bị phát hiện, rồi kéo bao tay về phía mình, gom bao tay lại cho vàng nằm bên trong và cất giấu vào túi áo khoác. Sau đó, H giả vờ đi xung quanh, khi mọi người không chú ý, H đi ra ngoài và đi về. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, H mang số vàng lấy trộm được đến tiệm vàng Kim Phú Quý thuộc khu phố 11 (trước đây là khu phố 5), phường Dương Đ, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, do ông Đoàn Quốc Nghiệp làm chủ, bán được số tiền 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).

- Lần thứ hai: Vào khoảng 12 giờ ngày 20/10/2021, H tiếp tục đến tiệm vàng Kim Thạnh 2, giả vờ hỏi mua vàng, chị Nguyễn Thị Cẩm Tú đưa cho Hằng xem các tấm lắc tay. Cũng giống như lần trước, H lợi dụng chị Tú mất cảnh giác dùng bao tay đè lên vàng, sau đó để 02 tay lên bao tay nhằm tránh bị phát hiện, rồi kéo bao tay về phía mình, gom bao tay lại cho vàng nằm bên trong, và cất giấu vào túi áo khoác và đi ra ngoài rồi đi về. Tài sản H lấy trộm lần này là 01 tấm lắc tay loại mặt lật, loại vàng 18K, trên tấm lắc có in chữ A.HOA 710, trọng lượng 20 chỉ 09 phân 07 li. Đến khoảng 13 giờ ngày 21/10/2021, H mang tấm lắc lấy trộm đến tiệm vàng Kim Phú Quý cầm với số tiền 3.000.000đ. Đến khoảng 15 giờ ngày 22/10/2021, H mang giấy cầm vàng đến tiệm vàng Kim Phú Quý thỏa thuận bán luôn tấm lắc đã cầm với số tiền 73.814.000đ, trừ đi số tiền trước đó đã cầm 3.000.000đ và tiền lãi 10.000 đ. H mang tiền về nhà cất giữ chưa tiêu xài thì đến khoảng 08 giờ ngày 30/10/2021 bị Công an phát hiện. Ngày 06/12/2021, H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phú Quốc khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.

* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vậ:

- 01 tấm lắc tay loại khoen, mặt lật, bằng kim loại màu vàng, trên tấm lắc có in chữ “A.HOA 710”;

- 01 tờ hợp đồng cầm cố tài sản số 15 ngày 21/10/2021 của tiệm vàng Kim Phú Quý;

- 01 áo khoác bằng vải, loại tay dài, màu xanh đen, không rõ nhãn hiệu, áo khoác có mũ đội; bên trong mũ có 01 lớp vải loại sọc màu kem – đỏ – đen – trắng, áo khoác có 01 khóa kéo màu vàng, phía trước áo khoát có đính các hạt màu vàng, phần cổ tay áo và viền dưới của áo có 02 lằn sọc màu kem, áo đã qua sử dụng.

- 01 áo khoác bằng vải, loại tay dài, màu đỏ - xám, trên cổ áo có chữ PTFJEANS, áo khoát có 01 khóa kéo màu xanh đen, áo đã qua sử dụng;

- 01 đôi bao tay bằng vải, màu kem, bên trong có một lớp vải màu xanh xám, bao tay đã qua sử dụng;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 68P1 - xxx.xx, đã qua sử dụng;

- 01 USB nhãn hiệu Sandisk, có ốp nhựa màu đen, loại 08GB, đã qua sử dụng, có chứa video vụ trộm cắp tài sản (đã niêm phong).

* Tại Kết luận giám định số 83/C09B ngày 20/12/2021 của Phân Viện khoa học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 lắc tay kim loại màu vàng, trên lắc có in chữ “A.HOA 710”, khối lượng: 78,6563 gam gửi giám định có thành phần kim loại chủ yếu là Vàng (Au). Hàm lượng Vàng (Au): 72,10%.

* Tại Kết luận định giá về tài sản số: 75/KL-HĐĐGTS ngày 10/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc kết luận như sau:

- Giá trị 01 bộ vòng ximen 09 chiếc bằng vàng 18k (loại 610), trọng lượng 05 chỉ, thời điểm ngày 14/10/2021 trị giá 16.500.000đ;

- Giá trị 01 chiếc lắc tay (kiểu mắt lật) bằng vàng 18k (loại 710), trọng lượng 20 chỉ 09 phân 07 li ngày 20/10/2021 trị giá 79.755.900đ.

Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 96.255.900đ.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2022/HS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Dương Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Ngọc H 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 27/4/2022, bị cáo Dương Ngọc H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Dương Ngọc H có ý kiến: Thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng tội; thay đổi nội dung kháng cáo là xin được xử loại hình phạt cải tạo không giam giữ.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo H có ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xét điều kiện, hoàn cảnh của bản thân và gia đình bị cáo H, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hằng, xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ.

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo kháng cáo nhưng không có cung cấp thêm được tình tiết mới đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo Dương Ngọc H về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Ngày 14/10/2021, Dương Ngọc H hai lần đến tiệm vàng Kim Thạnh 2, thuộc số 223, đường Nguyễn Trung Trực, khu phố 5, phường Dương Đ, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang do bà Võ Thị Th làm chủ giả vờ mua vàng, sau đó lợi dụng sự sơ hở của nhân viên bán vàng lén lút lấy trộm 09 chiếc vòng ximen, loại vàng 18k, trọng lượng 05 chỉ, có trị giá 16.500.000đ và ngày 20/10/2021 H tiếp tục lấy trộm 01 tấm lắc tay loại mặt lật, vàng 18K, trên tấm lắc có in chữ A.HOA 710, trọng lượng 20 chỉ 09 phân 07 li trị giá 79.755.900đ. Tổng tài sản trộm cắp có giá trị là 96.255.900đ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Dương Ngọc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, tác động xấu đến an ninh, trật tự ở địa phương. Cụ thể, bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác mà giá trị tài sản mỗi lần chiếm đoạt đều đủ định lượng cấu thành tội phạm, tổng cộng giá trị tài sản của 2 lần chiếm đoạt là 96.255.900đ. Từ đó cho thấy, cấp sơ thẩm áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 2 năm tù là có cơ sở, đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng và bị áp dụng.

Mặt khác thấy rằng, hành vi của bị cáo vi phạm vào khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 2 đến 7 năm tù. Bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 nhưng cũng có một tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nên không thể áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự (tức là dưới 2 năm tù). Đồng thời, bị cáo không phải bị xử ở khoản nhẹ nhất của Điều 173 Bộ luật hình sự , nên cũng không đủ điều kiện để áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hình phạt tù (tức là không thể chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ như yêu cầu của bị cáo H và đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu ra tại phiên tòa). Bị cáo phạm tội hai lần, trong đó có một lần thuộc khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự (tức là tội nghiêm trọng), nên thuộc trường hợp không được hưởng án treo theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 2 năm tù là mức án nhẹ nhất có thể, đã xem xét, chiếu cố cho bị cáo.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử thống nhất theo ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận ý kiến của người bào chữa, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Ngọc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo H.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không nhận kháng cáo của bị cáo Dương Ngọc H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2022/HS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Ngọc H 02 (Hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Dương Ngọc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số: 42/2022/HS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 149/2022/HS-PT

Số hiệu:149/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về