Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 08/2022/HS-PT NGÀY 07/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo N.D.Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HS-ST ngày 04 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

- Bị cáo có kháng cáo: N.D.Q, sinh năm 1993 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp P, xã P, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông N.V.Đ và bà H.T.H; vợ: T.T.N.C, sinh năm 1992 (đã ly hôn); con: có 01 người con sinh năm 2017; tiền án: có 02 tiền án. Tại Bản án số 15/2017/HSST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 19/9/2018. Tại Bản án số 62/2019/HSST ngày 25/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre đã xử phạt 01 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/10/2020; tiền sự: có 02 tiền sự. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 27/QĐ-XPHC ngày 08/6/2019 của Công an xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa nộp phạt. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC ngày 09/02/2021 của Công an xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, nộp phạt ngày 31/8/2021; bị tạm giam từ ngày 20/4/2021 cho đến nay; có mặt. (Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo C.T.T nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 27/02/2021, N.D.Q gặp C.T.T (là bạn bè thân quen) tại nhà của anh L.T.B (thuộc ấp G, xã T, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre). Do không có tiền tiêu xài nên N.D.Q bàn bạc và hứa hẹn với C.T.T đi lấy trộm đồ cổ đem về cho N.D.Q đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài vì N.D.Q biết chỗ tiêu thụ. C.T.T đồng ý và nói khi nào lấy trộm được sẽ thông báo cho N.D.Q đem đi bán.

Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 28/02/2021, C.T.T mượn xe mô tô biển số 71C1 - 416.32 của anh N.M.H.T (sinh năm 1993; nơi cư trú: ấp V, xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) để chạy đến nhà ông T.C.T (sinh năm 1960; nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) lén lút đột nhập vào sân nhà lần lượt lấy trộm 01 cái ghế đôn lục giác và 02 cái ghế đôn voi, rồi chở về nhà của mình cất giấu. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, C.T.T chỉ chỗ cho N.D.Q đến nhà C.T.T lấy 01 cái ghế đôn lục giác và 02 cái ghế đôn voi để N.D.Q chở lên Khu phố x, phường P, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre bán cho ông M.V.T được số tiền 2.500.000 đồng. N.D.Q lấy tiền tiêu xài cá nhân hết mà không chia cho C.T.T như thỏa thuận ban đầu. Sau khi gây án xong, C.T.T bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 26/8/2021, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Đại bắt tạm giam khi đang lẫn trốn tại ấp P, xã P, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

* Theo Biên bản giám định hiện vật số 03/GĐ-KH2021 ngày 29/3/2021 của Hội đồng khoa học mở rộng của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 (một) cái ghế đôn lục giác loại gốm men nhiều màu thuộc gốm Sài Gòn (Việt Nam) niên đại đầu thế kỷ XX là cổ vật.

- 02 (hai) cái ghế đôn voi loại gốm men nhiều màu thuộc gốm Lái Thiêu (Việt Nam) niên đại giữa thế kỷ XX là di vật.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐG ngày 14/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Đại kết luận:

- 01 (một) cái ghế đôn lục giác loại gốm men nhiều màu thuộc gốm Sài Gòn (Việt Nam) niên đại đầu thế kỷ XX là cổ vật, trị giá: 20.000.000 đồng;

- 02 (hai) cái ghế đôn voi loại gốm men nhiều màu thuộc gốm Lái Thiêu (Việt Nam) niên đại giữa thế kỷ XX là di vật, trị giá: 10.000.000 đồng (01 cái ghế đôn voi trị giá 5.000.000 đồng);

Tổng giá trị tài sản là: 30.000.000 đồng.

Ngày 01/3/2021, Cơ quan điều tra đã thu hồi lại được tài sản trên do ông Tới giao nộp. Ông Tới yêu cầu N.D.Q bồi hoàn lại cho ông số tiền 2.500.000 đồng. N.D.Q chưa thực hiện việc bồi hoàn lại số tiền này.

Ngày 20/4/2021, Cơ quan điều tra đã trao trả lại 01 cái ghế đôn lục giác và 02 cái ghế đôn voi cho ông P.C.T. Ông P.C.T đã nhận lại đủ tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì thêm.

Ngày 31/8/2021, Cơ quan điều tra tổ chức thực nghiệm điều tra vụ án; cho N.D.Q và C.T.T diễn lại hành vi bàn bạc việc đi lấy trộm tài sản tại nhà của anh Bình; việc cất giấu tài sản tại nhà của C.T.T; và hành vi của C.T.T khi lấy trộm tài sản tại nhà ông P.C.T là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HS-ST ngày 04-10-2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre đã quyết định: Tuyên bố bị cáo N.D.Q phạm “Tội trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo N.D.Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.

Ngoài ra; Bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo C.T.T, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm; ngày 04/10/2021, bị cáo N.D.Q kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo N.D.Q phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo N.D.Q 02 năm 06 tháng tù là tương xứng; kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.D.Q 02 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận.

- Bị cáo nói lời sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: căn cứ vào lời khai của bị cáo kết hợp với các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: vào khoảng 08 giờ ngày 27/02/2021, tại nhà của anh L.T.B thuộc ấp G, xã T, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, các bị cáo C.T.T và N.D.Q đã bàn bạc và hứa hẹn với nhau trong việc bị cáo C.T.T đi lấy trộm đồ cổ mang về cho bị cáo N.D.Q đi bán để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 28/02/2021, bị cáo C.T.T đi đến nhà ông T.C.T thuộc ấp T, xã Đ, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre lấy trộm của ông P.C.T 01 cái ghế đôn lục giác trị giá 20.000.000 đồng và 02 cái ghế đôn voi trị giá 10.000.000 đồng, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 30.000.000 đồng, rồi đem về đưa bị cáo N.D.Q đi bán.

[3] Về tội danh: bị cáo N.D.Q là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự; mặc dù bị cáo đã có 02 tiền án về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Nhưng vì động cơ tư lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản đã cùng với bị cáo C.T.T thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại T.C.T với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 30.000.000 đồng; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với ý thức, hành vi, nhân thân và giá trị tài sản chiếm đoạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo N.D.Q phạm “Tội trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo N.D.Q yêu cầu giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng: Khi áp dụng hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: bị cáo đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản, nên phạm tội có tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo “Thành khẩn khai báo” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; “Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đã xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: mặc dù sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, người bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên; qua xem xét quá trình hoạt động của bản thân bị cáo, thấy rằng bị cáo đã 02 lần bị kết án về các tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa được xóa tiền sự; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, phạm tội có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn; điều đó chứng tỏ bị cáo có nhân thân không tốt, không chỉ thể hiện ý thức xem thường pháp luật mà còn xem thường tài sản của người khác, là người khó cải tạo. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; tại cấp phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, không đủ điều kiện để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo có căn cứ và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[5] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N.D.Q; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 27/2021/HS-ST ngày 04/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo N.D.Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”;

Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.

2. Về án phí: căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo N.D.Q phải nộp: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo C.T.T; trách nhiệm dân sự và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-PT

Số hiệu:08/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về