Bản án về tội trộm cắp tài sản (dây chuyền bạc) số 65/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023 và Thông báo hoãn phiên tòa số 14/2023/TB-TA ngày 26 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Lâm Duy H; sinh năm: 2000 tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nơi cư trú: thôn Tân H, xã Bàu C, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt N; tôn giáo: Không; con ông Lâm Duy L; sinh năm 1975; con bà Nguyễn Thị N; sinh năm 1973; tiền sự: Không; tiền án: có 2 tiền án: ngày 22/02/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (hiện bị cáo chưa đóng án phí HSST đối với bản án này); ngày 22/9/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xử phạt 13 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt ngày 19/01/2023); bị cáo bị bắt ngày 01/3/2023; hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “Có mặt”.

- Bị hại: Ông Trang Thanh V, sinh năm: 1988; Trú tại: thôn Thành L, xã Kim L, huyện C, tỉnh B.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thanh N (Bợm), sinh năm 1994.

HKTT: Tổ 19, thôn Tân C, xã Bàu C, huyện C, tỉnh B.

2. Ông Phan Thanh P, sinh năm 1977.

HKTT: Tổ 20, ấp 1C, xã Phước T, huyện Long T, tỉnh Đ.

3. Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1973.

HKTT: Thôn Tân H, xã Bàu C, huyện C, tỉnh B.

4. Ông Nguyễn Thế D, sinh năm 1974.

HKTT: Thôn Tân C, xã Bàu C, huyện C, tỉnh B.

(Ông V, bà Nh, ông D có mặt; ông N có đơn xin xét xử vắng mặt; ông P vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 22/02/2023, Lâm Duy H điều khiển xe mô tô Honda Winer màu xám, biển số: 72F1-785.xx đến nhà Nguyễn Thanh N chơi. Sau đó, H rủ N đi nhậu tại trung tâm thương mại xã Kim L, huyện C, N đồng ý. Khi ở nhà N, H có mượn N 01 cái kìm sửa xe mô tô bỏ vào túi đeo chéo, nhưng N không nghe được H nói gì. Khoảng 00 giờ ngày 23/02/2023, H điều khiển xe mô tô Honda Winer màu xám, biển số: 72F1-785.xx chở N lên trung tâm thương mại xã Kim L để nhậu. Tuy nhiên, khi đến nơi thì quán nhậu đóng cửa nên H ở lại tìm quán nhậu. Lúc này, N mượn xe mô tô của H về nhà xem con ngủ như thế nào. Sau đó, H đi bộ xung quanh trung tâm thương mại xã Kim L thì nhìn thấy tiệm bạc Hồng T tại Lô C, Kiot 20 của anh Trang Thanh V không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đi qua bên phải tiệm bạc, trèo lên phía trên lưới B40 rồi dùng kìm cắt lưới đột nhập vào phía trong tiệm. Khi vào trong, H lấy trộm được 50 sợi dây chuyền bạc, trong đó có: 09 sợi dây chuyền bạc xi vàng, 41 sợi dây chuyền bạc; 01 lắc tay bạc, 06 lắc tay bạc xi vàng, 05 vòng tay bạc và 300.000 đồng để ở tủ trưng bày. Sau khi lấy trộm được tài sản, H tẩu thoát ra ngoài theo đường cũ rồi đi bộ đến đèn xanh đèn đỏ gần Ủy ban nhân dân xã Kim L. Tại đây, H gọi điện cho N lên đón nhưng N không nghe máy. H đứng đợi khoảng 10 phút thì N điều khiển xe mô tô đến đón. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở N về nhà của N tại xã Bàu C, huyện C rồi H về nhà. Đến 07 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô Honda Winer màu xám, biển số: 72F1-785.xx đi qua nhà N rồi rủ N sang thị xã Phú M chơi, N đồng ý. H không nói việc đi sang thị xã Phú M bán tài sản trộm cắp được cho N biết. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở N đi đến tiệm bạc Hồng C tại ấp 1C, xã Phước T, huyện Long T, tỉnh Đ bán số bạc trộm cắp được cho chủ tiệm bạc “Hồng C” là anh Phan Thanh P được 23.100.000đồng. Sau khi bán Bạc xong, H chở N về lại nhà của N. Sau đó, H điều khiển xe đến thị trấn Ngãi G mua 01 sợi dây chuyền vàng với giá 7.800.000 đồng. Đến ngày 24/02/2023, H cho N mượn số tiền 10.000.000 đồng để N chuộc xe mô tô của N hết 9.000.000 đồng còn 1.000.000 đồng N tiêu xài cá nhân hết.

Tại Biên bản kết luận định giá tài sản số 49/BB-HĐĐGTS ngày 14/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Châu Đức kết luận: Tổng giá trị tài sản trộm cắp ngày 23/02/023 là 50.065.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS-CĐ ngày 13/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố Lâm Duy H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại các điểm c, điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lâm Duy H. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; các điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lâm Duy H mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo Lâm Duy H không tranh luận mà xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại là ông Trang Thanh V yêu cầu Lâm Duy H bồi thường số tiền 23.000.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho H.

Bà Nguyễn Thị Nh (là mẹ của H) đã bồi thường cho ông Trang Thanh V số tiền 23.000.000 đồng. Bà Nh không yêu cầu bị cáo H phải hoàn trả số tiền trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra trong tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bản Cáo trạng số 67/CT-VKS-CĐ ngày 13/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố Lâm Duy H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại các điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Tại phiên tòa, Lâm Duy H thừa nhận: Khoảng 00 giờ ngày 23/02/2023, tại Lô C, Kiot 20 thuộc trung tâm thương mại xã Kim L, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Duy H đã lén lút trộm cắp được 50 sợi dây chuyền bạc, trong đó có: 09 sợi dây chuyền bạc xi vàng, 41 sợi dây chuyền bạc; 01 lắc tay bạc, 06 lắc tay bạc xi vàng, 05 vòng tay bạc trị giá 50.065.000 đồng và 300.000 đồng để ở tủ trưng bày của anh Trang Thanh V (Tổng trị giá tài sản mà H trộm được là 50.365.000 đồng).

[3] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của Công an huyện Châu Đức, với bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy: Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức giữ nguyên Cáo trạng số: 67/CT-VKS-CĐ ngày 13/6/2023, kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Duy H là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Bị cáo Lâm Duy H là công dân đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Nhưng bị cáo coi thường pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội nên đã dấn thân vào con đường phạm tội. Chỉ vì tham lam tư lợi, nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi trộm cắp tài sản của bị hại được bị cáo thực hiện một cách cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, để sử dụng cho bản thân là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà nó còn gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải có bản án nghiêm khắc đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội đồng thời mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, giáo dục, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để quyết định cho bị cáo H một mức hình phạt phù hợp.

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: H đã tác dộng đến mẹ bồi thường thiệt hại cho bị hại. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; vì vậy cần áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo H là thỏa đáng.

Đối với Nguyễn Thanh N: Khi đi cùng H sang thị xã Phú M thì N không biết H mang số tài sản trộm cắp được ngày 23/02/2023 để đi tiêu thụ. Cho đến khi N nhìn thấy H lấy số bạc từ trong túi đeo ra bán cho ông Phan Thanh P (chủ tiện bạc Hồng C tại ấp 1C, xã Phước T, huyện Long T, tỉnh Đ) thì hỏi H về nguồn gốc số bạc nhưng H không nói cho N biết và nói N đi ra ngoài. Sau đó, H cho N mượn số tiền 10.000.000 đồng để chuộc xe mô tô và tiêu xài cá nhân. N không hỏi H về nguồn gốc số tiền và H cũng không nói cho N biết nguồn gốc số tiền từ đâu mà có. Do đó, hành vi của Nguyễn Thanh N không đủ yếu tố cấu thành tội “Che giấu tội phạm” theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự.

Đối với Phan Thanh P đã thu mua tài sản gồm 50 sợi dây chuyền bạc; 07 lắc tay bạc; 05 vòng tay bạc của Lâm Duy H, trọng lượng là 38,5 lượng với giá là 23.100.000 đồng vào ngày 23/02/2023. Ông P không biết nguồn gốc số tài sản trên do H trộm cắp mà có. Bên cạnh đó, khi bán tài sản H không nói cho P biết tài sản này là do trộm cắp mà có. Vì vậy, hành vi của Phan Thanh P không đủ cơ sở cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh của H đang rất khó khăn nên không áp dụng áp dụng hình phạt bổ sung đối với H.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ông Trang Thanh V yêu cầu Lâm Duy H bồi thường số tiền 23.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Nh (là mẹ của H) đã bồi thường cho ông Trang Thanh V số tiền 23.000.000 đồng. Ông V không yêu cầu gì thêm, nên trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong.

[8] Xử lý vật chứng:

Chiếc mô tô Honda Winer màu xám, biển số: 72F1-785.xx là tài sản của bà Nguyễn Thị Nh (là mẹ ruột H). Khi H lấy xe thì bà Nh không biết H đi trộm cắp tài sản. Ngày 25/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã trả lại cho bà Nh (đã xử lý xong);

- 01 lắc tay bằng bạc kiểu khoen lật móc máy, trọng lượng 16,8 chỉ, ký hiệu TKAG98; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng kiểu khoen lật, trọng lượng: 9,47 chỉ, kí hiệu PTST; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng kiểu ống, trọng lượng: 2,5 chỉ, kí hiệu PTST; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng, kiểu xích, trọng lượng: 3,09 chỉ, kí hiệu PTST; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng, kiểu xích tròn, trọng lượng: 4,7 chỉ; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng, kiểu lắc ô van, trọng lượng: 3,78 chỉ; 01 lắc tay bằng bạc xi vàng, kiểu mắt xích, trọng lượng: 3,67 chỉ, kí hiệu: NT950; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu khoen lật, trọng lượng: 3,2 chỉ, kí hiệu: H.NGA; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu ống, trọng lượng: 3,8 chỉ, kí hiệu: H.NGA; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu lật, trọng lượng: 4,16 chỉ, kí hiệu: H.NGA; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu lát vuông, trọng lượng: 3,25 chỉ, kí hiệu: PTST; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu chữ cong, trọng lượng: 7,5 chỉ; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu lá ô van, trọng lượng: 2,35 chỉ, kí hiệu: YTALYA; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu lá sóng bướm, trọng lượng: 2,38 chỉ, kí hiệu: YTALYA; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu dây ép, trọng lượng: 1,5 chỉ, kí hiệu: YTALYA S925; 01 dây chuyền bằng bạc xi vàng, kiểu dây ép, trọng lượng: 1,35 chỉ, kí hiệu: YTALYA S925. Đây là tài sản hợp pháp của ông Trang Thanh V. Ngày 25/05/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại tài sản trên cho ông V (đã xử lý xong);

- 01 dây chuyền vàng, kí hiệu: 10.610 TIEN, loại vàng 18K (610), trọng lượng: 2,21 chỉ là do Lâm Duy H dùng tiền bán tài sản trộm cắp được để mua. Qua làm việc, ông V đồng ý nhận sợi dây chuyền vàng, kí hiệu: 10.610 TIEN, loại vàng 18K (610), trọng lượng: 2,21 chỉ. Vì vậy, ngày 25/05/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả cho ông Trang Thanh V (đã xử lý xong);

- 09 dây chuyền bạc, kiểu khoen lật, trọng lượng: 60,5 chỉ; 10 dây chuyển bạc, kiểu phay máy, trọng lượng: 14,5 chỉ; 08 dây chuyền bạc, kiểu ống phay máy, trọng lượng: 76,5 chỉ; 04 dây chuyền bạc, kiểu khoen tròn, trọng lượng: 50,5 chỉ; 10 dây chuyền bạc, kiểu ống trụ đặc, trọng lượng: 94,5 chỉ; 05 Vòng bạc, kiểu trơn, trọng lượng: 15 chỉ là tài sản của ông Trang Thanh V. Sau khi Lâm Duy H trộm cắp được thì đã đem bán cho ông Phan Thanh P. Ông P đã bán cho khách hàng qua đường, không rõ nhân thân lai lịch. Ngày 28/02/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định truy tìm vật số: 05/QĐ-TT nhưng đến nay chưa truy tìm được.

- 01 chiếc kìm bằng kim loại, lưỡi màu bạc, cán bọc cao su màu đỏ, dài khoảng 16cm mà Lâm Duy H dùng để cắt lưới B40 đột nhập vào tiệm bạc Hồng T để trộm cắp tài sản. Khi trộm cắp tài sản xong, H đã vứt chiếc kìm trên đoạn đường QL56 thuộc xã Bàu C, huyện C, tỉnh BR-VT. Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã tiến hành truy tìm chiếc kìm trên nhưng đến nay chưa truy tìm được.

- 01 USB màu đen, nhãn hiệu KINGSTON, 32 GB bên trong chứa: 01 File MP4, Size: 461,804KB, Length: 00:59:59, tên DVR_ch2_main_20230223010000_ 20230223020000; 01 File MP4, Size: 461,819KB, Length: 00:59:59, tên DVR_ch1_main_20230223010000_ 20230223020000 là đoạn video Lâm Duy H đột nhập vào tiệm bạc Hồng T trộm cắp tài sản là tài liệu, chứng cứ thì tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- 01 USB màu bạc, nhãn hiệu KINGSTON, DTSE9, 32GB bên trong chứa: 01 File MOV, size: 216,112KB, length: 00:22:18, tên AGDH4068; 01 File MOV, size: 246,741KB, length: 00:21:15, tên LLPF8969; 01 File MOV, size: 219,957KB, length: 00:21:20, tên OQWB6079 là đoạn video Lâm Duy H bán tài sản trộm cắp được tại tiệm bạc Hồng C. tài liệu, chứng cứ thì tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

- 01 quần Jean màu xanh (rách gối hai bên ống quần); 01 áo khoác màu đen hiệu ALTAMODA mà Cơ quan CSĐT đã thu giữ của Lâm Duy H là tài sản của H thì áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho H.

Hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Châu Đức đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức chờ xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo Lâm Duy H phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Duy H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lâm Duy H 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 01/3/2023. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho Lâm Duy H: 01 quần Jean màu xanh (rách gối hai bên ống quần); 01 áo khoác màu đen hiệu ALTAMODA.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức với Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức ngày 19/6/2023).

Án phí: Bị cáo Lâm Duy H nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/8/2023), bị cáo, ông V, bà Nh và ông D có quyền kháng cáo. Đối với ông N, ông P vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn này được tính từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (dây chuyền bạc) số 65/2023/HS-ST

Số hiệu:65/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Lâm Duy H về tội "Trộm cắp tài sản". Vào khoảng 0 giờ ngày 23/02/2023, Lâm Duy H đã trộm cắp 50 sợi dây chuyền bạc, lắc tay bạc, vòng tay bạc và 300.000 đồng tại tiệm bạc Hồng T của ông Trang Thanh V. Tổng trị giá tài sản bị trộm là 50.365.000 đồng.

Bị cáo Lâm Duy H thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác. Tòa án nhận định hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Tòa án xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, bao gồm bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại. Vì vậy, tòa án áp dụng các điểm tình tiết giảm nhẹ để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Tòa án tuyên phạt bị cáo Lâm Duy H 03 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản". Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và một số vật chứng được xử lý theo quy định. Bị cáo, bị hại và những người liên quan có quyền kháng cáo trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án.