Bản án về tội tham ô tài sản số 419/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 419/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Trong các ngày 26 và 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 322/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 416/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Trương Thị Tiểu H, sinh năm: 1996 tại: tỉnh Tây Ninh; Thường trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Cư trú: A đường B, khu phố C, phường An Khánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: nhân viên; Trình độ văn hóa:

12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương D và bà: Nguyễn Thị H; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 26/5/2022 (có mặt).

- Người bị hại: Công ty TNHH Thương mại A Trụ sở: A đường B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: bà Trần Thị H, sinh năm 1974; Địa chỉ: A đường B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. vắng mặt.

- Người làm chứng: chị Đoàn Lê Trúc P Địa chỉ: A đường B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 03/11/2020, Trương Thị Tiểu H được tuyển dụng làm nhân viên thu ngân của cửa hàng Kmartket Thảo Điền-chi nhánh của công ty TNHH Thương mại An Cát, địa chỉ cửa hàng tại 26 đường Thảo Điền, phường Thảo Điền, thành phố Thủ Đức. Nhiệm vụ của H là: Tính tiền và thu tiền hàng của khách hàng, đặt hàng hóa lên bàn tính tiền và ghi nhận qua máy tính tiền các mặt hàng khách đã mua, thanh toán và thu tiền vào quỹ, in hóa đơn (bill) đưa cho khách.

Đến khoảng 19 giờ 00 ngày 21/11/2021, chị Đoàn Lê Trúc Phương là nhân viên an ninh giám sát camera quản lý cửa hàng của công ty TNHH Thương mại An Cát kiểm tra camera ngày 20/11/2021 thì phát hiện H có hành vi thanh toán tiền cho khách gây thất thoát cho công ty. Chị Phương báo cáo đến lãnh đạo công ty, Công ty yêu cầu chị Phương kiểm tra camera thì phát hiện từ ngày 03/11/2021 đến ngày 21/11/2021, H đã liên tục thực hiện các hành vi như: Bán hàng và thu tiền nhưng không in hóa đơn (bill) cho khách hàng, hủy hóa đơn bán hàng trên máy để lấy tiền khách trả mà không nộp về công ty, cố ý tính sai số lượng hàng hóa trong hóa đơn mua hàng của khách hàng, lấy hàng hóa tại cửa hàng mang về sử dụng mà không thanh toán tiền hàng. Tất cả 30 lần thực hiện các hành vi này được lưu giữ trong 100 tập tin video.

Ngày 11/01/2022, đại diện Công ty TNHH Thương mại An Cát trình báo đến Cơ quan Công an hành vi sai phạm của Trương Thị Tiểu H. Tại Cơ quan Điều tra, H thừa nhận toàn bộ sai phạm như trên.

Tiến hành cho H xem lại 100 tập tin video nói trên, H thừa nhận hình ảnh trong các video là H. Nội dung trong các clip video là H đang thực hiện các thao tác không lưu hóa đơn, hủy hóa đơn, không in hóa đơn, cố ý tính ít số lượng hàng hóa khi thanh toán. H xác nhận về số lần thực hiện hành vi, số hàng hóa và số tiền H đã lấy đúng với số hàng hóa công ty đã trình báo với Cơ quan Công an. Số tiền H chiếm đoạt của công ty, một phần H đưa cho cha ruột chữa bệnh, còn lại đã mang đi trả nợ và tiêu xài cá nhân.

Kết luận giám định số 1291/KL-KTHS ngày 21/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 100 tập tin video gửi đến giám định có hình ảnh của Trương Thị Tiểu H thực hiện các hành vi sai phạm khi làm việc trong ca trực từ ngày 03/11/2021 đến ngày 21/11/2021 không phát hiện thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 100 tập tin video cần giám định ký hiệu từ A1 đến A100.

Kết luận định giá tài sản số 52 ngày 13/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Đức kết luận, giá trị tài sản hàng hóa bị H tham ô thông qua 30 lần thực hiện hành vi phạm tội có giá trị 27.658.800 đồng.

Vật chứng vụ án: 01 USB có hình ảnh của Trương Thị Tiểu H thực hiện hành vi tham ô tài sản.

Trách nhiệm dân sự: Ông Trương Dũng là cha của Trương Thị Tiểu H đã nộp lại cho công ty TNHH Thương mại An Cát số tiền 27.688.000 đồng, đại diện công ty An Cát không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 306/CT-VKS ngày 22/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo về tội: “Tham ô tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức giữ quyền công tố căn cứ Điều 319 Bộ luật tố tụng Hình sự về việc thay đổi nội dung truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo phạm tội: “Tham ô tài sản” theo khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 65 để xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Về trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong, về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo xin lỗi vì hoàn cảnh khó khăn của gia đình mà gây ảnh hưởng tới công ty, bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được về với gia đình để làm công dân tốt và báo hiếu với cha mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp các tài liệu chứng cứ thu thập được đủ cơ sở xác định: từ ngày 03/11/2021 đến ngày 21/11/2021 tại cửa hàng Kmarket Thảo Điền, địa chỉ 26 đường Thảo Điền, phường Thảo Điền, thành phố Thủ Đức. Trương Thị Tiểu H đã lợi dụng chức vụ thu ngân để chiếm đoạt tiền hàng hóa mà H có trách nhiệm quản lý khi nhận thanh toán cho khách hàng bằng các hình thức không lưu hóa đơn, hủy hóa đơn, không in hóa đơn, cố ý tính ít số lượng hàng hóa khi thanh toán.

Bị cáo đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, liên tục 30 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, tuy nhiên chỉ có một lần giá trị tài sản chiếm đoạt trên mức tối thiểu quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự. Do tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 27.658.800 đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tham ô tài sản” thuộc trường hợp theo khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là bột phát, xuất phát từ khó khăn của gia đình khi cha bị cáo phải điều trị bệnh.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường cho bị hại; Các lần thực hiện hành vi phạm tội đều thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh gia đình khó khăn; Bị cáo có cụ nội và bác ruột là liệt sĩ, đây là những là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Bị cáo có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng thuận lợi để chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng như cải tạo bị cáo nhằm mục đích giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội, thời gian tạm giam từ ngày 26/5/2022 đến nay cũng đủ để bị cáo nhìn nhận được sai lầm và có chiều hướng khắc phục, cải tạo bản thân nên không cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội. Do vậy, áp dụng áp dụng Điều 54 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cho bị cáo được hưởng án treo, tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự quản lý, giáo dục của chính quyền địa phương.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Về vật chứng: Lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa các video vụ án.

- Về phần trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra giữa bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ khoản 1 Điều 353; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trương Thị Tiểu H phạm tội: “Tham ô tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trương Thị Tiểu H: 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ khoản 3 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Trương Thị Tiểu H nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo Trương Thị Tiểu H cho Ủy ban nhân dân phường An Khánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo.

2/ Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa video vụ án.

3/ Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Trương Thị Tiểu H phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 419/2022/HS-ST

Số hiệu:419/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về