TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 02 năm 2022 và thông báo thay đổi ngày xét xử số 55 ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Lê Hồng Q, sinh năm 1983; HKTT: Khu B, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Hồng B, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1949; Vợ: Đặng Thị Tr, sinh năm 1985 (Đã ly hôn), con: 01 con, sinh năm 2004.
- Tiền án: có 02 tiền án.
+ Tại Bản án số 05/HSST ngày 06/11/2009 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tháng 01/2011 chấp hành xong hình phạt tù, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
+ Tại Bản án số 95/HSST ngày 11/6/2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Ngày 25/4/2019 chấp hành xong hình phạt tù, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Tiền sự: Không;
Nhân thân: Năm 2008 bị Công an quận Hoàng Mai xử phạt hành chính hình thức “phạt tiền” về hành vi đánh bạc.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 03/9/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên tòa).
2. Đỗ Quang H, sinh năm 1990; HKTT: Thôn P, xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Quang T, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; Vợ: Mai Thị D, sinh năm 1989, con: có 01 con, sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
Tại Bản án số 71/HSST ngày 28/8/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 24 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2, Điều 136 BLHS năm 1999. Ngày 01/12/2016 chấp hành xong hình tù, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên tòa).
3. Trần Thị L, sinh năm 1998; HKTT: Thôn Đ, xã T, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn V, sinh năm 1968 và bà Đào Thị T, sinh năm 1967; chồng, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên tòa).
4. Vũ Thị Lan H, sinh năm 1994; HKTT: Khu C, phường Đ, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Hồng B, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1952; chồng: Triệu Văn L, sinh năm 1996 - Đang bị tạm giam tại Trại giam Hỏa Lò; con: có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019.
Tiền án: có 02 tiền án.
+ Tại Bản án số 37/HSST ngày 04/9/2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 22/6/2015 chấp hành xong hình phạt tù, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
+ Tại Bản án số 92/HSST ngày 27/6/2018 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 29 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251. Bị cáo được hoãn chấp hành hình phạt tù vì đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.
Tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên tòa).
5. Trần Việt Đ, sinh năm 1991; HKTT: Khu phố H, phường Đ, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn C, sinh năm 1955 và bà Ngô Thị H, sinh năm 1963; vợ: Lương Thị Q.A, sinh năm 1997; con: có 01 con, sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
Tại Bản án số 12/HSST ngày 02-04/5/2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt 07 năm tù về tội: “Giết người” theo điểm n, khoản 1, Điều 93 BLHS năm 1999. Ngày 24/01/2018 chấp hành xong hình phạt tù, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp “Bảo lĩnh” (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Hồng Q, sinh 1983; HKTT: tại khu phố Bồ Sơn, phường Võ Cường, TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Đỗ Quang H, sinh năm 1990 có HKTT tại thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và Vũ Thị Lan H, sinh năm 1994 có HKTT tại Khu phố Cẩm Giang, phường Đồng Nguyên, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đang ở căn hộ số 1511 tầng 15, Chung cư Môi trường xanh, phường Đồng Nguyên, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là bạn bè xã hội. Trần Thị L, sinh năm 1998 có HKTT tại thôn Đồng Mé, xã Tuấn Đạo, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang là bạn của Hương và đang ở cùng Hương tại căn hộ 1511 Chung cư Môi trường xanh.
Nguyễn Hữu H, sinh năm 1985 có HKTT tại thôn Lũng Sơn, TT. Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và Trần Việt Đ, sinh năm 1991 có HKTT tại khu phố Hạ, phường Đình Bảng, TX. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đều có mối quan hệ bạn bè xã hội với Q và Hương. Nguyễn Thị Ngọc Mai, sinh năm 2002 có HKTT tại thôn Văn Khê, xã Nghĩa Hưng, huyện Quốc Oai, TP. Hà Nội là bạn gái của Đ và Trịnh Thị Lan Anh, sinh năm 1997 có HKTT tại thôn Cầu Mư, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa là bạn gái của Hà.
Cuối tháng 8/2021, Q đã nhờ Hương tìm nhà để Q thuê. Hương đã thuê cho Q 01 ngôi nhà ở khu tu tạo thôn Đồng Xép, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh của gia đình anh Nguyễn Văn Đắc, sinh năm 1993 có HKTT tại khu phố Dương Lôi, phường Tân Hồng, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Q đã nhờ Hải đứng tên trong hợp đồng thuê nhà. Q là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên tối 01/9/2021, Q đã đi đến khu vực phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn mua của một người đàn ông không quen biết 7.000.000 đồng tiền ma túy. Sau đó, Q đã chia nhỏ số ma túy vừa mua vào các túi nilon màu trắng rồi cất vào 01 chiếc ví màu tím và 01 hộp gỗ nhỏ màu đen để sử dụng dần. Trưa ngày 02/9/2021, Q đã cùng Hải, Hương và Lý chuyển đồ của Q ở nhà trọ cũ sang ngôi nhà mới thuê ở thôn Đồng Xép. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Hà đi cùng bạn là Hoàng Văn L, sinh năm 1994 có HKTT tại thôn Lũng Sơn, TT. Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đến thăm nhà Q thuê. Hà và L đã lên phòng ngủ của Q ở tầng 2 nói chuyện với Q. Khi này, Lý đang ở phòng Q sắp xếp đồ cho Q. Tại đây, Q đã lấy ra 01 túi nilon chứa ma túy “ke” đổ ra chiếc đĩa sứ mà Q đã mang lên phòng từ trước đó. Sau đó, Q dùng 01 chiếc phôi thẻ sim đảo ma túy ra cho mịn và gạt chia thành nhiều đường nhỏ song song. Q lấy một tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng quấn lại thành ống hút rồi đưa đĩa ma túy cho L, bảo L mời H và L sử dụng. Tuy nhiên lúc này, H và L không sử dụng và đi về luôn. L để lại đĩa ma túy trên bàn trong phòng ngủ của Q rồi đi về Chung cư cùng H.
Lúc này, chỉ còn Hải và Q, Q đã gọi H lên phòng ngủ của mình và rủ Hải sử dụng ma túy “ngựa”. Q lấy chai nhựa, gắn 02 ống hút bằng nhựa lên nắp chai và thân chai để làm dụng cụ sử dụng rồi lấy trong chiếc hộp gỗ màu đen ra 02 viên nén màu hồng và một ít chất tinh thể màu trắng. Sau đó, Q và Hải cùng nhau sử dụng hết số ma túy này rồi mở nhạc sàn, cùng nhau nằm trong phòng nghe nhạc.
Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Trần Việt Đ đã điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Lux màu trắng, BKS: 99A - 453.23 chở Hà đến nhà Q chơi. Do Hà không nhớ đường nên đã gọi điện bảo Q ra đón. Lúc này, Q và Hải đang nằm nghe nhạc tại phòng ngủ của Q nên Q bảo Hải đem cất chai nhựa lên tầng 3 rồi ra đón Hà, còn Q đem số ma túy đựng trong ví và hộp gỗ lên tầng 3 cất giấu trong chiếc gối màu hồng để ở giường rồi kéo khóa lại. Hải đưa Hà và Đ vào nhà, đi lên phòng ngủ của Q ở tầng 2 rồi lên tầng 3 ngủ. Khi này, Q đi từ tầng 3 xuống gặp Hải ở cầu thang liền bảo: “Anh để “đồ” ở trong gối trên tầng 3, lát chúng nó lên lấy thì đưa hộ anh nhé.” Hải hiểu là Q để ma túy trong gối, khi nào bạn của Q lấy ma túy để sử dụng thì sẽ lên gặp Hải. Sau đó, Q đã gọi điện thoại cho Hương rủ đến nhà Q chơi. Hương đồng ý và đã rủ Lý đi cùng đến nhà Q. Hương điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Mazda CX5, BKS: 99A - 244.14 chở Lý đến nhà Q.
Tại phòng ngủ tầng 2 của nhà Q, Q mở nhạc sàn, bật đèn nháy rồi lấy đĩa ma túy có sẵn trên bàn từ chiều để xuống đệm mời Hà và Đ sử dụng. Khi đó, Q và Đ sử dụng ma túy trên đĩa còn Hà không sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Hương và Lý đến và lên phòng tầng 2 của Q. Lúc này, Q đã bảo Hương và Lý sử dụng ma túy nên Hương và Lý đã tham gia sử dụng ma túy cùng Q và Đ.
Khi thấy Hương và Lý đến, Hà đã nhắn tin cho bạn gái là Lan Anh rủ đi sinh nhật cùng, Lan Anh đồng ý. Lúc này, Đ cũng gọi điện cho Mai rủ đi chơi, Mai đồng ý. Thấy Đ đi đón Mai nên Hà đã nhờ Đ đón Lan Anh luôn. Đ điều khiển xe ô tô Vinfast, BKS: 99A - 453.23 đến Chung cư môi trường xanh, phường Đồng Nguyên, TP. Từ Sơn đón Mai và Lan Anh. Sau khi Đ đi, Q bảo với Lý: “Em lên tầng 3 bảo Hải đưa cho anh 2 viên kẹo để mọi người sử dụng”. Lý liền đi lên tầng 3 gặp Hải lấy ma túy “kẹo”. Khi đó, Hải đã mở chiếc gối màu hồng ra lấy trong chiếc ví màu tím 02 viên nén màu xanh xám đưa cho Lý. Lý cầm 02 viên ma túy Hải đưa xuống phòng đưa lại cho Q. Lúc này, Q nói: “Không phải loại màu xanh này, em lên bảo Hải lấy cho anh viên màu xanh khác”. Lý tiếp tục đi lên tầng 3 gặp Hải. Hải liền lấy trong ví ra 04 viên nén, trong đó có 02 viên màu xanh da trời và 02 viên màu xanh lá cây đưa cho Lý. Lý cầm xuống phòng để số ma túy đó lên đĩa sứ cho mọi người cùng sử dụng. Một lúc sau, Đ cùng Mai và Lan Anh đến ngồi dưới đệm cùng Hà, Q ngồi trên giường cùng Hương và Lý. Khi thấy có đĩa ma túy, Mai và Lan Anh đã tự cầm lên và sử dụng. Lúc này, Q và Lý đều nhìn thấy Mai và Lan Anh sử dụng ma túy.
Đến khoảng 2 giờ ngày 03/9/2021, thấy gần hết ma túy “ke” trên đĩa, Q bảo Lý: “Em lên tầng 3 bảo Hải lấy cho anh một chỉ ke”. Lý đi lên tầng 3 gặp Hải.
Hải lấy từ trong gối ra đưa cho Lý 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng. Lý cầm túi ma túy xuống phòng để lên đĩa. Q đã ngồi xuống đệm, đổ ma túy trong túi nilon ra đĩa rồi sử dụng thẻ “xào” mịn ma túy rồi chia thành các đường cho mọi người sử dụng. Các đối tượng sử dụng ma túy và nhảy nhót cùng nhau trong phòng, sau đó nằm tại giường và đệm ngủ. Đến khoảng 4 giờ ngày 03/9/2021, Đ tỉnh dậy định sử dụng ma túy tiếp thì thấy ma túy “ke” ở đĩa còn ít. Đ liền gọi Q: “Anh ơi còn ke không?” Q nói: “Em lên tầng 3 bảo Hải đưa cho”. Đ đi lên tầng 3 gặp Hải và được Hải đưa cho 02 túi nilon ma túy “ke”. Đ cầm 02 túi ma túy xuống để trên bàn và sử dụng nốt số ma túy “ke” ở đĩa rồi tiếp tục nằm ngủ. Q thấy Đ đem ma túy xuống liền đổ 01 túi ra đĩa “xào” lên sử dụng rồi để đĩa trên nền nhà và nằm ngủ. Sau đó, không có ai sử dụng ma túy nữa.
Đến 8 giờ ngày 03/9/2021, khi các đối tượng đang ngủ tại phòng ngủ tầng 2 của nhà Q thì lực lượng Công an huyện Tiên Du phối hợp với Công an xã Hoàn Sơn đã kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ:
- Tại nền nhà có 01 chiếc đĩa sứ màu trắng đường kính 26 cm trên đĩa có: 01 ống hút quấn bằng tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng, 01 phôi thẻ sim viettel, trong lòng đĩa có chất bột màu trắng. Các đối tượng khai nhận chất bột là ma túy đang sử dụng. Cơ quan Công an tiến hành thu giữ số ma túy trên niêm phong trong phong bì ký hiệu M1.
- Trên mặt bàn trang điểm có 01 viên nén màu xanh da trời và 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng. Cơ quan Công an tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M2.
- Tại góc nhà gần cửa sổ có: 01 đèn chiếu laze, 01 bộ loa vi tính gồm 1 loa chính và 2 loa nhỏ.
- Trên kệ ti vi có 01 bộ loa gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ.
- Thu của Lê Hồng Q: 01 điện thoại di động Iphone 12 màu đỏ và 01 điện thoại di động Nokia màu đen.
- Thu của Nguyễn Hữu H: 01 điện thoại di động Iphone 12ProMax màu xanh.
- Thu của Trần Việt Đ: 01 điện thoại di động Iphone X.
- Thu của Vũ Thị Lan H: 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro màu xanh và 01 điện thoại di động Iphone 7 màu vàng.
- Thu của Trần Thị L: 01 điện thoại di động Iphone 11 ProMax màu xanh. Qua kiểm tra, các đối tượng gồm: Q, Lý, Hải, Đ, Hương, Hà, Mai và Lan Anh đều dương tính với chất ma túy.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tạm giữ phương tiện mà các đối tượng đi đến nhà Q sử dụng ma túy.
+ Thu của Vũ Thị Lan H : 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mazda CX5, BKS:
99A - 24414.
+ Thu của Trần Việt Đ : 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Lux A2.0, BKS: 99A - 453.23.
Hồi 9 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp toàn bộ ngôi nhà của Đỗ Quang H và Lê Hồng Q thuê tại khu tu tạo thôn Đồng Xép, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du. Quá trình khám xét, cơ quan điều tra đã thu giữ :
- Tại phòng ngủ tầng 3, trong chiếc gối màu hồng để trên giường có:
+ 01 chiếc hộp gỗ màu đen trong hộp có: 01 túi nilon chứa 91 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh da trời; 01 túi nilon kích thước (3x3)cm và 01 túi nilon kích thước (4x7)cm đều chứa chất tinh thể màu trắng. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M3.
+ 01 chiếc ví màu tím kích thước (8x6x3)cm có khóa kéo bên trong ví có: 13 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nilon chứa 10 viên nén màu xanh lá cây; 01 túi nilon chứa 08 viên nén màu xanh lá cây; 01 túi nilon chứa 08 viên nén màu xanh xám và 06 viên nén màu xanh da trời. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M4.
- Thu của Đỗ Quang H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen.
- Tại tủ quần áo:
+ Ở ngăn phía dưới bên trái có 01 chai nhựa trên nắp chai gắn 2 ống hút bằng nhựa;
+ 02 cân tiểu ly điện tử kích thước (12x6x2)cm;
+ 200 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5)cm, 50 túi nilon kích thước (4x7)cm, 100 túi nilon kích thước (3x3)cm; tất cả các túi bên trong đều không chứa gì;
+ 01 giấy xác nhận nhân thân của Lê Hồng Anh, sinh năm 2004 ở khu Bồ Sơn, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Đây là giấy tờ của con gái của Q.
- Thu tại phòng bếp tầng 1: 01 chiếc đĩa sứ màu trắng đường kính 26cm.
Hồi 10 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chiếc xe ôtô nhãn hiệu VinFast Lux A2.0, BKS: 99A-453.23 của Trần Việt Đ. Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra đã thu giữ:
+ Tại khe cánh cửa phía trước ghế lái có 01 chiếc ví giả da màu đen bên trong có: 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe hạng B2 đều mang tên Trần Việt Đ; 02 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon chứa 02 viên nén màu xanh. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M5.
Hồi 12 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chiếc xe ôtô nhãn hiệu Mazda CX5, BKS: 99A - 24414 của Vũ Thị Lan H. Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra không thu giữ gì:
Hồi 14 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Thị Lan H và Trần Thị L tại Căn hộ số 1511, tầng 15 khu chung cư Môi trường xanh thuộc phường Đồng Nguyên, TP. Từ Sơn. Quá trình khám xét, cơ quan điều tra đã thu giữ :
- Trong phòng ngủ của Hương:
+ Trên bồn rửa mặt ở nhà vệ sinh có 01 chai nhựa nắp đậy màu đỏ, chiều cao 12cm, trên bình có gắn 2 ống hút màu vàng cam;
+ Tại giá để đồ ở phòng ngủ có 02 mảnh giấy bạc một mảnh có kích thước (21x22)cm, một mảnh có kích thước (26x9)cm.
+ Trong thùng rác dưới chân giường có 01 túi nilon màu trắng có bám dính chất bột màu xanh. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M6;
+ Tại giá để trên đầu giường có 01 túi hộp hình trụ cao 15cm, rộng (21x15,5)cm, bằng vải màu đen sọc trắng, bên trong túi có: 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 bật lửa ga dạng khò, 01 túi nilon màu trắng chứa 02 viên nén màu xanh. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M7;
+ Tại ngăn kéo bàn phấn có 01 hộp giấy không có nắp kích thước (16x8x5)cm trong có 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 10.000đồng và 01 tờ tiền đô la mệnh giá 2USD được quấn thành ống hút và 30 túi nilon màu trắng kích thước (4x8)cm bên trong không chứa gì.
+ Tại ngăn kéo tủ đựng quần áo có 01 túi giả da màu đen kích thước (9,5x6,5)cm trong túi có: 01 túi nilon màu trắng chứa 50 viên nén màu xanh, 01 túi nilon trong có 03 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu M8.
- Tại phòng bếp: ở góc trong bồn rửa có 01 vỏ hộp sữa “RIDIELAC” trong hộp có: 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng và 04 túi nilon kích thước (5x8)cm không chứa gì. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M9.
Hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Việt Đ tại khu phố Hạ, phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn. Quá trình khám xét, cơ quan điều tra đã không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Tại Bản Kết luận giám định số: 605/KLGĐMT-PC09 ngày 03/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 có khối lượng 0,1272 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
- 01 viên nén màu xanh da trời trong phong bì ký hiệu M2 có khối lượng là 0,4022 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M2 có khối lượng 0,8582 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
- 91 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh da trời trong phong bì ký hiệu M3 có khối lượng là 9,1085 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.
- Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon kích thước (4x7)cm trong phong bì ký hiệu M3 có khối lượng là 2,7728 gam; Là ma túy; loại ma túy: Methamphetamine.
- Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon kích thước (3x3)cm trong phong bì ký hiệu M3 có khối lượng là 0,9808 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
- Chất tinh thể màu trắng bên trong 13 túi nilon trong phong bì ký hiệu M4 có khối lượng là 9,7714 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
- 18 viên nén màu xanh lá cây trong phong bì ký hiệu M4 có khối lượng là 8,7346 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- 08 viên nén màu xanh xám trong phong bì ký hiệu M4 có khối lượng là 2,2355 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- 06 viên nén màu xanh da trời trong phong bì ký hiệu M4 có khối lượng là 2,5077 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- 02 viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu M5 có khối lượng là 0,6919 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M5 có khối lượng 4,2286 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
- Chất bột màu xanh bám dính trong túi nilon trong phong bì ký hiệu M6 có khối lượng là 0,0212 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- 02 viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu M7 có khối lượng là 0,5457gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- 50 viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu M8 có khối lượng là 20,1282 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA.
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M8 có khối lượng là 12,9653 gam; Là ma túy; loại ma túy: Methamphetamine.
- Chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M9 có khối lượng là 100,1094 gam; Là ma túy; loại ma túy: Ketamine.
* Về vật chứng:
Quá trình điều tra làm rõ: Toàn bộ số ma túy M1, M2 thu giữ tại phòng ngủ tầng 2 và số ma túy M3, M4 thu giữ tại tầng 3 là ma túy của Q đã mua từ tối 01/9/2021 để sử dụng. Sau đó, Q đã dùng số ma túy M1, M2 mời các đối tượng khác sử dụng vào các ngày 02/9/2021 và ngày 03/9/2021.
Đối với 01 đĩa sứ màu trắng đường kính 26cm; 01 phôi thẻ sim Viettel; 01 đèn chiếu laze; 01 bộ loa gồm 1 loa chính và 2 loa nhỏ; 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng; 01 chai nhựa trên nắp chai gắn 2 ống hút bằng nhựa là dụng cụ mà Q đã chuẩn bị để cùng các đối tượng sử dụng ma túy trong phòng ngủ tại nhà mình. Còn 01 bộ loa to gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ là tài sản của Q, chưa lắp đặt để mở nhạc.
Đối với 02 cân tiểu ly điện tử và 200 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5)cm, 50 túi nilon kích thước (4x7)cm, 100 túi nilon kích thước (3x3)cm không chứa gì là dụng cụ của Q để Q chia nhỏ ma túy ra sử dụng dần.
Đối với số ma túy M5 thu giữ trong chiếc xe ôtô nhãn hiệu VinFast Lux A2.0, BKS: 99A-453.23 mà Trần Việt Đ điều khiển đến nhà Q, Đ khai nhận: Chiều ngày 30/8/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Đ đã đi bộ đến khu đất mới của phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn mua của một người đàn ông không quen biết 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng là ma túy “ke” và 01 túi nilon chứa 02 viên nén màu xanh là ma túy “kẹo” với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, Đ cất giấu vào ví để sử dụng sau, không ai biết Đ cất giấu số ma túy đó.
Đối với chiếc xe ôtô nhãn hiệu VinFast Lux A2.0, BKS: 99A-453.23 mà Trần Việt Đ đã điều khiển, qua xác minh chiếc xe đăng ký tên công ty TNHH sản xuất thương mại Hoàng Cường do anh Trần Văn Mạnh, sinh năm 1982 có HKTT tại phố Hạ, phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn (anh trai của Đ) là người đại diện theo pháp luật. Anh Mạnh trình bày: Ngày 02/9/2021 Đ đã mượn chiếc xe ô tô trên của công ty anh nói là đi có việc. Anh Mạnh đã giao xe cho Đ sử dụng, anh không biết Đ điều khiển xe để đi sử dụng ma túy nên anh đề nghị xin lại chiếc xe. Ngày 23/11/2021, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Mạnh, anh không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.
Đối với số ma túy M6, M7, M8, M9 thu giữ tại căn hộ của Vũ Thị Lan H xác định là ma túy của Hương. Hương khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, ngày 31/8/2021, Hương đã ra khu vực Chùa Dận, phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn mua 01 túi ma túy gồm các loại ma túy tổng hợp (kẹo, ke, đá) với số tiền 12.000.000 đồng để sử dụng dần. Sau khi mua được, Hương về căn hộ của mình chia nhỏ ma túy vào các túi nilon cất giấu ở các nơi trong phòng để tránh bị phát hiện và không để Lý biết. Chiều tối ngày 02/9/2021 sau khi từ nhà Q về, Hương đã vào phòng ngủ của mình bỏ một phần ma túy ra sử dụng một mình. Chai nhựa có nắp đậy màu đỏ, trên bình có gắn 2 ống hút màu vàng cam, 02 mảnh giấy bạc, 02 bật lửa và 01 tờ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 10.000đồng cùng 01 tờ tiền đô la mệnh giá 2 USD được quấn thành ống hút mà cơ quan điều tra đã thu giữ trong phòng ngủ của Hương là dụng cụ Hương đã dùng để sử dụng ma túy. Ngoài ra, quá trình khám xét căn hộ của Vũ Thị Lan H, cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ thẻ nhớ trong camera an ninh của căn hộ. Qua kiểm tra thẻ nhớ đã thể hiện những hoạt động Hương cất giấu ma túy trong căn hộ của mình ngày 01/9/2021. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong thẻ nhớ này và lưu theo hồ sơ vụ án.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKSYP ngày 13/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã:
Truy tố bị cáo Q về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b, h khoản 2, điều 255 BLHS và tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm n, o khoản 2, Điều 249 BLHS.
Truy tố các bị cáo Hải, Lý về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b, khoản 2, điều 255 BLHS.
Truy tố bị cáo Hương về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm h, khoản 3, Điều 249 BLHS.
Truy tố bị cáo Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i, khoản 1, Điều 249 BLHS.
Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Các bị cáo thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố về các tội như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:
Bị cáo Q phạm tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Bị cáo Hải, Lý phạm tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Bị cáo Hương, bị cáo Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Đề nghị áp dụng điểm b, h khoản 2, Điều 255; điểm n, o khoản 2; điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Hồng Q từ 08 năm tù đến 9 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và từ 06 năm tù đến 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Tổng hợp hình phạt chung của cả 2 tội buộc bị cáo Q phải chấp hành là từ 14 năm tù đến 16 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2021.
Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 255; điểm s, khoản 1 (và khoản 2 đối với Hải) Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Đỗ Quang H và Trần Thị L, mỗi bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/9/2021.
Đề nghị áp dụng điểm h, khoản 3; điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Vũ Thị Lan H từ 10 năm đến 10 năm 06 tháng tù. Căn cứ Điều 56 BLHS;
Tổng hợp hình phạt 29 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa chấp hành tại bản án số 92/HSST ngày 27/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh với hình phạt của bản án này, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án từ 12 năm 05 tháng đến 12 năm 11 tháng; thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2021 được trừ thời gian tạm giữ trong vụ án trước từ ngày 16/01/2018 đến ngày 22/01/2018.
Đề nghị áp dụng điểm i, khoản 1; điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Việt Đ từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 04 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến 16/11/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
* Tịch thu tiêu huỷ:
- 01 hộp giấy dựng mẫu vật hoàn còn lại sau giám định được niêm phong dán kín, trên mép có chữ ký niêm phong của những người tham gia niêm phong và dấu đỏ của Phòng PC 09- Công an tỉnh Bắc Ninh có số 605 ghi ngày 08/9/2021.
- 02 đĩa sứ màu trắng đường kính 26 cm.
- 01 phôi thẻ sim Viettel.
- 01 đèn chiếu Laze MP7979.V7 - 01 chai nhựa trên lắp chai màu đỏ có 2 ống hút.
- 01 chai nhựa hình hồ lô trên lắp chai màu đỏ có 01 ống hút và tại thân chai có gắn 1 ống hút.
- 02 mảnh giấy bạc màu trắng.
-01 túi vải hình trụ màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (21x15,5x15)cm.
- 01 bật lửa ga màu đỏ trên thân ga có chữ “Lộc phát”.
- 01 bật lửa ga dạng khò.
- 01 hộp giấy không có nắp kích thước (16x8x5)cm.
- 01 túi giả da màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (4,5x6,5)cm.
- 01 vỏ hộp sữa DIDIELAC.
- 04 túi nilon màu trắng kích thước (5x8)cm không chứa gì.
- 02 chiếc cân tiểu ly điện tử kích thước (12x6x2)cm.
- 200 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5)cm không chứa gì.
- 50 túi nilon màu trắng kích thước (4x7)cm không chứa gì.
- 100 túi nilon màu trắng kích thước (3x3)cm không chứa gì.
- 30 túi nilon màu trắng kích thước (4x8)cm không chứa gì.
- 01 chiếc gối màu hồng kẻ có khoá kéo.
- 01 chiếc hộp gỗ màu đen.
- 01 chiếc túi ví màu tím KT (8x6x3) có khoá kéo.
- 01 ví giả da cầm tay có khoá kéo.
* Tịch thu sung quỹ Nhà nước:
- 02 ống hút được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng/1tờ.
- 01 ống hút được quấn bằng tờ 2 USD.
- 01 bộ loa, gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ của Q.
* Trả lại:
- Cho bị cáo Q 01 điện thoại Iphone XR màu đỏ trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng và 01 điện thoại Nokia màu đen trong gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Q); 01 giấy xác nhận nhân thân của Lê hồng Anh, sinh năm 2004 ở Bồ Sơn, Võ Cường, TP. Bắc Ninh, Bắc Ninh; 01 bộ loa, gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ. Tuy nhiên tạm giữ 02 chiếc điện thoại và 01 bộ loa để đảm bảo thi hành án.
- Cho bị cáo Đ 01 điện thoại Iphone X màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng, 01 giấy chứng minh thư nhân dân số 125450038 mang tên Trần Việt Đ và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trần Việt Đ.
- Cho bị cáo Hương 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Hương) và 01 điện thoại Iphone 7 màu vàng trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng.
- Cho bị cáo Lý 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng.
- Cho bị cáo Hải 01 điện thoại Samsung màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng.
Tạm giữ điện thoại của các bị cáo Đ, Hương, Lý, Hải để đảm bảo thi hành án.
Lưu theo hồ sơ 01 thẻ nhớ thu tại nhà bị cáo Hương.
Các bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, khi nói lời sau cùng, các bị cáo bị Toà án nhân dân huyện Tiên Du xét xử là đúng người, đúng tội, không oan sai và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để để sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét khẩn cấp, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng từ 23 giờ ngày 02/9/2021 đến 08 giờ ngày 03/9/2021, tại phòng ngủ tầng 2 ngôi nhà do Lê Hồng Q thuê của anh Nguyễn Văn Đắc ở khu tu tạo thôn Đồng Xép, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Q đã chuẩn bị ma túy và các dụng cụ để tổ chức cho các đối tượng Trần Việt Đ, Vũ Thị Lan H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Thị Ngọc Mai và Trịnh Thị Lan Anh sử dụng trái phép chất ma túy. Đỗ Quang H và Trần Thị L đã giúp Q cung cấp ma túy cho các đối tượng trên sử dụng, đồng thời Lý, Hải và Q cũng sử dụng ma túy cùng các đối tượng.
Đến hồi 8 giờ ngày 03/9/2021, khi Q cùng các đối tượng đang sử dụng ma túy tại phòng ngủ của Q thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ số ma túy còn lại mà Q đã bỏ ra mời các đối tượng sử dụng gồm:
0,1272 gam ma túy Ketamine và 1,2604 gam ma túy MDMA. Qua kiểm tra xác định Đ, Hương, Hà, Mai và Lan Anh dương tính với chất ma túy.
Quá trình khám xét tại tầng 3 của ngôi nhà, Công an huyện Tiên Du phát hiện Lê Hồng Q đã tàng trữ trái phép 11,8813 gam ma túy Methamphetamine;
13,4778 gam ma túy MDMA và 10,7522 gam ma túy Ketamine mục đích để sử dụng.
Quá trình khám xét tại xe ô tô nhãn hiệu VinFast Lux A2.0, BKS: 99A- 453.23 mà Trần Việt Đ điều khiển đến nhà Q phát hiện Đ đã tàng trữ trái phép: 0,6919 gam ma túy MDMA và 4,2286 gam ma túy Ketamine mục đích để sử dụng.
Khám xét tại căn hộ 1511, tầng 15 Chung cư Môi trường xanh, phường Đồng Nguyên, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh của Vũ Thị Lan H phát hiện Hương tàng trữ trái phép 20,6951 gam ma túy MDMA; 12,9653 gam ma túy Methamphetamine và 100,1094 gam ma túy Ketamine mục đích để sử dụng.
Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo Q và hành vi giúp sức của các bị cáo Hải, Lý cho nhiều người sử dụng chất ma tuý nên các bị cáo bị VKS nhân dân huyện Tiên Du truy tố về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, với tình tiết định khung quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Q có 02 tiền án chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung quy định tại điểm h, khoản 2, điều 255 BLHS.
Ngoài ra bị cáo Q còn có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đối với số ma tuý thu tại phòng ngủ tầng 3 nhà bị cáo thuê với nhiều loại ma tuý, tỷ lệ % khối lượng các chất ma túy mà Q đã tàng trữ để sử dụng so với mức tối thiểu đối với từng chất đó quy định tại khoản 3, Điều 249 Bộ luật hình sự là 95,28%. Theo hướng dẫn quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì bị cáo Q chỉ bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm n, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của VKS nhân dân huyện Tiên Du là đúng quy định.
Hành vi của bị cáo Vũ Thị Lan H tàng trữ nhiều chất ma túy để sử dụng với tỷ lệ % khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó quy định tại khoản 4, Điều 249 Bộ luật hình sự là 67,03%. Theo hướng dẫn quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số: 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì bị cáo Hương bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h, khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định.
Hành vi của Trần Việt Đ tàng trữ ma túy để sử dụng với tỷ lệ % khối lượng các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là 34,8%. Theo hướng dẫn quy định tại Khoản 2, Điều 5, Nghị định số: 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì bị cáo Đ bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về việc sử dụng các chất ma tuý về mục đích chữa bệnh và quản lý các chất ma tuý; hành vi của các bị cáo gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì phục vụ ham muốn bản thân các bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của các bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn huyện Tiên Du. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử các bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét vai trò, vị trí, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án thấy: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, tuy nhiên chỉ là đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ giữa các bị cáo, vai trò của bị cáo là Q là người có vai trò chính, đã bỏ tiền ra mua ma tuý; chuẩn bị công cụ, địa điểm cho các bị cáo và những người tham gia sử dụng ma tuý; bị cáo Hải, bị cáo Lý biết việc Q tổ chức sử dụng ma tuý đã có hành vi giúp sức cho bị cáo Q; vai trò của bị cáo Q cao hơn so với bị cáo Lý và Hải; bị cáo Lý giúp cho bị cáo Q tích cực hơn bị cáo Hải nên vai trò của bị cáo Lý cao hơn bị cáo Hải. Bị cáo Đ và bị cáo Hương phải chịu trách nhiệm về hành vi độc lập của mình về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy: Bị cáo Q là người có nhân thân xấu, có 02 tiền án chưa được xoá án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, bị cáo đã phải chịu là tình tiết định khung hình phạt nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điều 52 BLHS.
Bị cáo Hải là người có nhân thân xấu ngày 28/8/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 24 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2, Điều 136 BLHS năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Đến nay bản án trên đã được xoá theo quy định nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.
Bị cáo Lý là nữ, có nhân thân tốt lần đầu phạm tội tuy nhiên loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Bị cáo Hương là người có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xét xử cùng về loại tội về Ma tuý vào các năm 2013 và 2018; đối với bản án 2018 bị cáo chưa chấp hành án. Bị cáo đang được hoãn chấp hành hình phạt tù vì đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, lại tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng TNHS “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm h, khoản 1, điều 52 BLHS.
Bị cáo chưa chấp hành bản án năm 2018 nên căn cứ Điều 56 BLHS; cần tổng hợp hình phạt 29 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa chấp hành của bản án số 92/HSST ngày 27/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 bản án; thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2021 được trừ thời gian tạm giữ trong vụ án trước từ ngày 16/01/2018 đến ngày 22/01/2018.
Bị cáo Đ là người có nhân thân xấu, năm 2013 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt 07 năm tù về tội: “Giết người” theo điểm n, khoản 1, Điều 93 BLHS năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, đối với bản án trên đến nay đã được xoá theo quy định. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, điều 51 BLHS. Mặt khác bị cáo Q có bố là người tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất; có mẹ là người tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; bị cáo Hương có mẹ là người tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; bị cáo Hải có bố tham gia kháng chiến là thương binh loại A, hạng 3 nên Q, Hương, Hải được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định khoản 2, điều 51 BLHS.
Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du là phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xét xử các bị cáo bằng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp các bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý của các bị cáo Q, Hải, Lý ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với các bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; tuy nhiên các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo như lời đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.
[6] Về vật chứng của vụ án:
Số mẫu vật còn lại sau giám định: 01 hộp giấy dựng mẫu vật hoàn còn lại sau giám định được niêm phong dán kín, trên mép có chữ ký niêm phong của những người tham gia niêm phong và dấu đỏ của Phòng PC 09- Công an tỉnh Bắc Ninh có số 605 ghi ngày 08/9/2021; là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với các dụng cụ, vật đựng… các bị cáo sử dụng vào việc sử dụng ma tuý, tàng trữ ma tuý không có giá trị hoặc giá trị nhỏ nên tịch thu tiêu huỷ gồm:
- 02 đĩa sứ màu trắng đường kính 26 cm.
- 01 phôi thẻ sim Viettel.
- 01 đèn chiếu Laze MP7979.V7 - 01 chai nhựa trên lắp chai màu đỏ có 2 ống hút.
- 01 chai nhựa hình hồ lô trên lắp chai màu đỏ có 01 ống hút và tại thân chai có gắn 1 ống hút.
- 02 mảnh giấy bạc màu trắng.
-01 túi vải hình trụ màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (21x15,5x15)cm.
- 01 bật lửa ga màu đỏ trên thân ga có chữ “Lộc phát”.
- 01 bật lửa ga dạng khò.
- 01 hộp giấy không có nắp kích thước (16x8x5)cm.
-01 túi giả da màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (4,5x6,5)cm.
- 01 vỏ hộp sữa DIDIELAC.
- 04 túi nilon màu trắng kích thước (5x8)cm không chứa gì.
- 02 chiếc cân tiểu ly điện tử kích thước (12x6x2)cm.
- 200 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5)cm không chứa gì.
- 50 túi nilon màu trắng kích thước (4x7)cm không chứa gì.
- 100 túi nilon màu trắng kích thước (3x3)cm không chứa gì.
- 30 túi nilon màu trắng kích thước (4x8)cm không chứa gì.
- 01 chiếc gối màu hồng kẻ có khoá kéo.
- 01 chiếc hộp gỗ màu đen.
- 01 chiếc túi ví màu tím KT (8x6x3) có khoá kéo.
- 01 ví giả da cầm tay có khoá kéo.
Đối với:
- 02 ống hút được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng.
- 01 ống hút được quấn bằng tờ 2 USD.
Là tiền Việt Nam đồng và ngoại tệ các bị cáo sử dụng làm công cụ sử dụng ma tuý, có giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối 01 bộ loa gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ của Q, sử dụng vào việc phạm tội có giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với:
- 01 điện thoại Iphone XR màu đỏ trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng và 01 điện thoại Nokia (thu của Q);
- 01 điện thoại Iphone X màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (thu của Đ).
- 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng và 01 điện thoại Iphone 7 màu vàng trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (thu của Hương);
- Lý 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (thu của Lý).
- 01 bộ loa, gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ thu của Q.
- Hải 01 điện thoại Samsung màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (thu của Hải).
Là các tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với:
- 01 giấy chứng minh thư nhân dân số 125450038 mang tên Trần Việt Đ và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trần Việt Đ.
- 01 giấy xác nhận nhân thân của Lê hồng Anh - Sn 2004 ở Bồ Sơn, Võ Cường, TP. Bắc Ninh, Bắc Ninh.
Là các giấy tờ tuỳ thân của các bị cáo và người nhà bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.
Đối với thẻ nhớ thu tại nhà bị cáo Hương, bị cáo không có ý kiến gì, là tài liệu đã niêm phong và được lưu theo hồ sơ vụ án, cần tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án. [7] Liên quan trong vụ án này:
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng ngủ ở nhà Q của Lê Hồng Q, Đỗ Quang H, Trần Thị L, Trần Việt Đ, Vũ Thị Lan H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Thị Ngọc Mai và Trịnh Thị Lan Anh, ngày 02/12/2021, Công an huyện Tiên Du đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng này về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức: “Cảnh cáo” là phù hợp.
Đối với hành vi của Trần Việt Đ là đi lấy ma túy ở chỗ Hải từ tầng 3 xuống phòng ngủ tầng 2, xét thấy Đ lấy số ma túy đó xuống phòng mục đích để sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Đồng thời, khi này, các đối tượng khác đều đang ngủ, không có ai sử dụng số ma túy do Đ đem xuống. Do đó, hành vi của Đ không đủ căn cứ cấu thành tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý Đ là đúng quy định pháp luật.
Đối với hành vi của Nguyễn Hữu H gọi điện rủ Lan Anh và hành vi của Đ gọi điện rủ Mai đến phòng của Q. Căn cứ vào lời khai của Hà, Đ, Lan Anh và Mai xác định: Mục đích Hà và Đ rủ Lan Anh và Mai đến để nói chuyện, tâm sự do đang có quan hệ tình cảm yêu đương, không có mục đích rủ Lan Anh và Mai đến sử dụng ma túy. Do đó, hành vi của Hà và Đ không đủ căn cứ cấu thành tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý Đ và Hà là đúng quy định pháp luật.
Đối với hành vi Hương rủ Lý đến nhà Q vào tối ngày 02/9/2021, quá trình điều tra xác định khi Q gọi điện cho Hương chỉ rủ Hương đến nhà Q chơi nên Hương không biết tại nhà Q các đối tượng đang sử dụng trái phép chất ma túy. Nên Hương rủ Lý đi cùng đến nhà Q với mục đích đến chơi, không phải đến sử dụng ma túy. Do đó, không đủ căn cứ xem xét Hương về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên cơ quan điều tra không xử lý Hương là đúng quy định pháp luật.
Đối với hành vi của Lê Hồng Q lúc đầu rủ Hải sử dụng ma túy, sau đó Đ và Hà đến thì Q lại tiếp tục mời Đ và Hà sử dụng ma túy. Xét thấy, hành vi này là một chuỗi hành vi liên tục, kế tiếp nhau khi Q tổ chức cho các đối tượng sử dụng ma túy nên không xem xét xử lý Q với tình tiết: Phạm tội 02 lần trở lên là đúng quy định pháp luật.
Đối với những người bán ma túy cho Q, Đ và Hương ở khu vực TP. Từ Sơn. Do Q, Đ và Hương không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của những người này nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.
Đối với anh Nguyễn Văn Đắc là chủ ngôi nhà đã cho Q thuê, quá trình điều tra xác định anh Đắc không biết Q sử dụng ngôi nhà để tổ chức cho các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra chỉ giáo dục, nhắc nhở anh Đắc là đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
Bị cáo Lê Hồng Q phạm các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Bị cáo Đỗ Quang H, Trần Thị L phạm tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Bị cáo Vũ Thị Lan H, bị cáo Trần Việt Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ điểm b, h, khoản 2, Điều 255; điểm n, o khoản 2, điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Hồng Q 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 tội là 15 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2021.
Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 255; điểm s, khoản 1 (khoản 2 đối với Hải) Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Đỗ Quang H 07 năm tù; Xử phạt: Trần Thị L 07 năm tù;
Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 03/9/2021.
Căn cứ điểm h, khoản 3, điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, điều 52; Điều 38, điều 56 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Vũ Thị Lan H 10 năm 06 tháng tù.
Tổng hợp hình phạt 29 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa chấp hành tại bản án số 92/HSST ngày 27/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 bản án là 12 năm 11 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2021 được trừ thời gian tạm giữ trong vụ án trước từ ngày 16/01/2018 đến ngày 22/01/2018.
Căn cứ điểm i, khoản 1, điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Việt Đ 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2021 đến ngày 16/11/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự Quyết định tạm giam các bị cáo Lê Hồng Q, Đỗ Quang H, Trần Thị L, Vũ Thị Lan H mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
* Tịch thu tiêu huỷ:
- 01 hộp giấy dựng mẫu vật hoàn còn lại sau giám định được niêm phong dán kín, trên mép có chữ ký niêm phong của những người tham gia niêm phong và dấu đỏ của Phòng PC 09- Công an tỉnh Bắc Ninh có số 605 ghi ngày 08/9/2021.
- 02 đĩa sứ màu trắng đường kính 26 cm.
- 01 phôi thẻ sim Viettel.
- 01 đèn chiếu Laze MP7979.V7 - 01 chai nhựa trên lắp chai màu đỏ có 2 ống hút.
- 01 chai nhựa hình hồ lô trên lắp chai màu đỏ có 01 ống hút và tại thân chai có gắn 1 ống hút.
- 02 mảnh giấy bạc màu trắng.
-01 túi vải hình trụ màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (21x15,5x15)cm.
- 01 bật lửa ga màu đỏ trên thân ga có chữ “Lộc phát”.
- 01 bật lửa ga dạng khò.
- 01 hộp giấy không có nắp kích thước (16x8x5)cm.
-01 túi giả da màu đen kẻ trắng có khoá kéo kích thước (4,5x6,5)cm.
- 01 vỏ hộp sữa DIDIELAC.
- 04 túi nilon màu trắng kích thước (5x8)cm không chứa gì.
- 02 chiếc cân tiểu ly điện tử kích thước (12x6x2)cm.
- 200 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5)cm không chứa gì.
- 50 túi nilon màu trắng kích thước (4x7)cm không chứa gì.
- 100 túi nilon màu trắng kích thước (3x3)cm không chứa gì.
- 30 túi nilon màu trắng kích thước (4x8)cm không chứa gì.
- 01 chiếc gối màu hồng kẻ có khoá kéo.
- 01 chiếc hộp gỗ màu đen.
- 01 chiếc túi ví màu tím KT (8x6x3) có khoá kéo.
- 01 ví giả da cầm tay có khoá kéo.
* Tịch thu sung quỹ Nhà nước:
- 02 ống hút được quấn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng.
- 01 ống hút được quấn bằng tờ 2 USD.
- 01 bộ loa, gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ của Q.
* Trả lại:
- Cho bị cáo Q 01 điện thoại Iphone XR màu đỏ trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng và 01 điện thoại Nokia màu đen trong gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Q);
- Cho bị cáo Đ 01 điện thoại Iphone X màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Đ).
- Cho bị cáo Hương 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Hương) và 01 điện thoại Iphone 7 màu vàng trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Hương)
- Cho bị cáo Lý 01 điện thoại Iphone 11 Pro màu xanh than trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của Lý).
- Cho bị cáo Q 01 bộ loa, gồm 01 loa chính và 02 loa nhỏ (của Q).
- Cho bị cáo Hải 01 điện thoại Samsung màu đen trong có gắn thẻ sim đã qua sử dụng (của H).
Tất cả các tài sản trên tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả lại:
- Cho bị cáo Đ 01 giấy chứng minh thư nhân dân số 125450038 mang tên Trần Việt Đ và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trần Việt Đ.
- Cho bị cáo Q 01 giấy xác nhận nhân thân của Lê hồng Anh, sinh năm 2004 ở Bồ Sơn, Võ Cường, TP. Bắc Ninh, Bắc Ninh.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/01/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du.
kín.
Lưu theo hồ sơ 01 thẻ nhớ thu tại nhà bị cáo Hương được niêm phong dán Căn cứ các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./
Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 45/2022/HS-ST
Số hiệu: | 45/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về