Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2022/TLST-HS, ngày 17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 04//2022/HSST-QĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Tuấn A, sinh ngày 24/11/2001;

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Quang Sơn, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; con ông Đoàn Văn T, sinh năm 1972 và bà Lê Thị H, sinh năm 1980; anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là thứ 02; vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.

(Có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn V – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang.

(Ông V do nhiễm Covid-19 vắng mặt tại phiên tòa; tại phiên tòa bị cáo xác định tự bào chữa, không nhờ người khác bào chữa, đề nghị xét xử không có mặt người bào chữa của bị cáo) *Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị Thu T; sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn Đồng Tiên, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

- Anh La Minh L, sinh năm 2001; đại chỉ: Thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Anh La Minh T, sinh năm 2001; địa chỉ: Thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Anh Bùi Văn T, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn Ao Sen, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

- Cháu Trần Văn C, sinh năm 2006; người đại diện cho cháu C: Chị Trần Thùy L, sinh năm 2002;

Cùng địa chỉ: Thôn Cây Xoan, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

(Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ, ngày 28/9/2021, Đoàn Tuấn A, sinh năm 2001; trú tại thôn Quang Sơn, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, đã có hành vi sử dụng nhà thuê của ông Phạm Văn M, sinh năm 1978, tại thôn 31, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang cung cấp ma tuý, dụng cụ sử dụng ma tuý tự chế 02 lần cho 05 người sử dụng trái phép chất ma tuý (trong đó 01 người 15 tuổi 08 tháng 18 ngày) và khoảng 04 giờ 50 phút, ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại phòng ngủ tầng hai nhà thuê của mình Đoàn Tuấn A có hành vi tàng trữ trái phép 20,626 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng, cụ thể:

Đầu tháng 9 năm 2021, Tuấn A thuê nhà của ông Phạm Văn M để làm nơi ở cho những người gồm: Tuấn A; Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1998, trú tại thôn Đồng Tiên, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nguyễn Thị T, sinh năm 2001, trú tại thôn Dân Tiến, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; Trần Thị H, sinh năm 1994, trú tại thôn 7, xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh; Đặng Mùi P, năm 2002, trú tại xã B, huyện B, tỉnh Bắc Cạn; Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 2002, trú tại tổ 5, Phố Mới, xã T, huyện K, tỉnh Hoà Bình (là các nhân viên rót bia, Tuấn A quản lý); La Minh T, sinh năm 2001, trú tại thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang và Trần Văn C, sinh ngày 10/01/2006 (15 tuổi 08 tháng 18 ngày), trú tại thôn Cây Xoan, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (là người chở nhân viên các quán Karaoke cho Tuấn A).

Khoảng 13 giờ ngày 25 tháng 9 năm 2021, Tuấn A đi xe ô tô taxi đến huyện V (Tuấn A không xác định được địa chỉ) gặp một người đàn ông không quen biết đang ngồi trên xe máy dựng bên đường trông giống người nghiện Tuấn A hỏi “Anh có biết chỗ nào lấy đồ không?”. Người đó trả lời “Có, thế lấy hàng gì, bao nhiêu”, Tuấn A nói “Lấy em bẩy triệu, ít hồng, ít đá”, (ý hỏi mua 7.000.000 đồng ma tuý loại Methamphetamine), người đàn ông bảo Tuấn A đợi sau đó điều khiển xe mô tô đi, khoảng 30 phút sau người đàn ông quay lại đưa cho Tuấn A 03 túi ni lon trong đó có 01 túi chứa 40 viên nén màu đỏ, 02 túi chứa chất tinh thể màu trắng, Tuấn A biết là ma tuý loại Methamphetamine nên cầm lấy, Tuấn A mang số ma túy đó về chỗ ở, cất giấu tại phía sau cánh cửa ra vào góc phòng ngủ tầng hai ngôi nhà thuê tại thôn 31, xã T, huyện H. Sau đó tổ chức sử dụng trái phép số ma tuý mua được, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 19 giờ, ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại phòng ngủ trên tầng hai ngôi nhà thuê tại thôn 31, xã T, trong phòng có Tuấn A và T. Lúc này, Tuấn A nảy sinh ý định sử dụng ma tuý, nên lấy bộ dụng cụ sử dụng ma tuý đá tự chế (cấu tạo gồm 01 lọ nhựa, 02 ống hút và 01 ống thuỷ tinh), sau đó lấy một ít ma túy mua được ngày 25 tháng 9 năm 2021 ra cho vào trong ống thuỷ tinh, dùng bật lửa hơ phần ống thuỷ tinh cho ma tuý bay hơi để T sử dụng, sau khi sử dụng T nằm tại phòng. Khi Tuấn A tiếp tục sử dụng thì có La Minh L (bạn của Tuấn A), sinh năm 2001, trú tại thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y đến nhà thuê của Tuấn A chơi, đi lên phòng ngủ trên tầng hai. Tuấn A nói “có chơi không”, L biết ý Tuấn A rủ mình sử dụng trái phép chất ma tuý, L nói “Tao bỏ lâu rồi, không chơi nữa”, Tuấn A tiếp tục sử dụng ma tuý, sau khi sử dụng Tuấn A nói “Thôi tao cất nhé”. Lúc này, L nảy sinh ham muốn sử dụng ma tuý, L nói “Thôi tao với mày cùng chơi”. Sau đó Tuấn A đưa dụng cụ bên trong có ma tuý cho L để Luân sử dụng. Sau khi L sử dụng ma tuý trong ống thuỷ tinh đã hết, Tuấn A cất bộ dụng cụ vào góc phòng rồi cùng L đi xuống tầng một.

Lần 2: Khoảng 05 phút sau, Bùi Văn T (bạn của Tuấn A) sinh năm 1987, trú tại thôn Ao Sen, xã Đ, huyện H đến nhà thuê của Tuấn A chơi, Tuấn A tiếp tục lên phòng ngủ tầng hai lấy một ít ma tuý đá vào cho vào ống thuỷ tinh và bật lửa hơ nóng cho ma tuý chảy ra sau đó để ở góc phòng mục đích chuẩn bị ma tuý cho người khác sử dụng, sau đó đi xuống. Khi xuống đến giữa cầu thang thì gặp La Minh T đi lên cầu thang, Trần Văn C đang ở phòng khách tầng một, Bùi Văn T đang ở dưới bếp đi lên. Thấy T, Tuấn A nói “Đồ tao để sẵn trên phòng đấy, mày có chơi thì lên mà chơi”, T hiểu ý Tuấn A đã chuẩn bị ma tuý ở trên tầng hai cho mình và người khác sử dụng. Sau đó, Tuấn A và L đi ra khỏi nhà.

Nghe thấy Tuấn A nói, T đi lên phòng ngủ tầng hai lấy bộ dụng cụ sử dụng ma tuý đá có sẵn ma tuý mà Tuấn A chuẩn bị trước đó ra sử dụng. Khi T đang sử dụng ma tuý, C đi lên nói với T “Cho em xin khói”, T đưa cho C sử dụng sau khi sử dụng C đi ra ngoài. Sau đó, T lên phòng, T đi ra ngoài, T sử dụng hết ma tuý còn lại trong ống thuỷ tinh, sau đó cất giấu bộ dụng cụ sử dụng ma tuý sau cánh cửa ra vào rồi đi ra ngoài.

Nhận được tố giác của quần chúng nhân dân có người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý tại nhà Tuấn A thuê, khoảng 04 giờ 50 phút, ngày 29 tháng 9 năm 2021, Tổ công tác Công an huyện H phối hợp với Công an xã T, tiến hành kiểm tra cư trú tại nhà Tuấn A thuê. Quá trình kiểm tra phát hiện, tại tầng một có T, L, T, C, T, H, P, H; tại phòng ngủ tầng hai có Tuấn A và T trong phòng. Thấy Tổ công tác, Tuấn A tự giác giao nộp 03 túi nilon trong đó có 01 túi chứa 40 viên nén màu đỏ, 02 túi chứa chất tinh thể màu trắng, bộ dụng cụ sử dụng ma tuý đá, 01 bật lửa ga.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý trong cơ thể ngày 29/9/2021 đối với Đoàn Tuấn A, Nguyễn Thị Thu T, La Minh L, La Minh T, Trần Văn C và Bùi Văn T, kết quả: (+) dương tính; đối với Nguyễn Thị T, Trần Thị H, Đặng Mùi P và Nguyễn Thị Thu H, kết quả (-) âm tính.

Tại Kết luận giám định số 875/GĐKTHS ngày 01/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận đối với 03 túi nilon Đoàn Tuấn A giao nộp: 40 viên nén màu đỏ trong túi nilon kích thước 7,7 x 05)cm gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng 3,669g (Ba phẩy sáu sáu chín gam); số chất tinh thể màu trắng hồng trong túi nilon kích thước (8,5 x 6)cm gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, khổi lượng 15,164g (Mười lăm phẩy một sáu bốn gam); số chất tinh thể màu trắng trong túi nilon kích thước (7,4 x 5)cm gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng 1,793g (Một phẩy bảy chín ba gam). Tổng khối lượng 20,626g (Hai mươi phẩy sáu hai sáu gam) Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 14/CT-VKSHY, ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố Đoàn Tuấn A về 02 tội, tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đoàn Tuấn A về 02 tội, tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Tuấn A từ 07 năm 09 tháng đến 08 năm 03 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý; từ 06 năm 03 tháng đến 06 năm 09 thàng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội mà bị cáo phải chấp hành từ 14 năm đến 15 năm tù. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, sau khi Hội đồng xét xử thông báo về việc vắng mặt người bào chữa của bị cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xét xử không có người bào chữa, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa; tại phần xét hỏi và tranh luận, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Viện kiểm sát; khi nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định, lời khai của những người làm chứng, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ hoàn toàn phù hợp và đủ cở sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 28 tháng 9 năm 2021, Đoàn Tuấn A, sinh năm 2001, trú tại thôn Quang Sơn, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi sử dụng nhà thuê của ông Phạm Văn M, sinh năm 1978, tại thôn 31, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang cung cấp ma túy , dụng cụ sử dụng ma túy 02 lần cho 05 người sử dụng trái phép chất ma túy (trong đó có 01 người 15 tuổi 08 tháng 18 ngày), cụ thể: Lần 1, Đoàn Tuấn A sử dungj phòng ngủ tầng hai nhà thuê của mình cung cấp ma túy loại Methamphetamine và dụng cụ sử dụng cho Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1989, trú tại thôn Đồng Tiên, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang và La Minh L, sinh năm 2001, trú tại thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y sử dụng. Lần 2, Đoàn Tuấn A sử dụng phòng ngủ tấng hai nhà thuê của mình cung cấp ma túy loại Methamphetamine và dụng cụ sử dụng cho Bùi Văn T, sinh năm 2001, trú tại thôn Cây Chanh, xã C, huyện Y và Trần Văn C, sinh ngày 10/01/2006 (15 tuổi 08 tháng 18 ngày), trú tại thôn Cây Xoan, xã Đ, huyện H sử dụng. Khoảng 04 giờ 50 phút ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại phòng ngủ tầng hai nhà thuê của mình, Đoàn Tuấn A có hành vi tàng trữ trái phép 20,626 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng mà bị cáo thực hiện đã phạm vào 02 tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng là hoàn toàn đúng người, đúng tội, có căn cứ, không oan.

Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện xâm phạm trực tiếp đến các quy định về độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân và có thể là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức, có trình độ học vấn. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy và hành vi tổ chức cho người khác sử dụng ma túy là hành vi trái pháp luật, bị nghiêm cấm. Nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo mua số lượng ma túy nhiều về tàng trữ để sử dụng dần và để tổ chức cho những người khác cùng sử dụng. Ma túy sau khi mua về bị cáo là người trực tiếp pha chế, chuẩn bị dụng cụ sử dụng và bố trí địa điểm cho những người khác cùng sử dụng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

Trong vụ án này bị cáo cùng một thời điểm thực hiện 02 hành vi phạm tội, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về 02 tội khác nhau. Cần áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội, buộc bị cáo phải chấp hành.

Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo phạm tội không có mục đích thu lời; bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị lớn. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã thu giữ 03 túi nilon trong đó 01 túi chứa 40 viên nén màu đỏ, 02 túi chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bộ sử dụng ma túy tự chế và 01 bật lửa gas. Những vật chứng này cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đoàn Tuấn A, Nguyễn Thị Thu T, La Minh L, Trần Văn C và Bùi Văn T, Công an huyện H đã xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo, phạt tiền đối với La Minh T.

Đối với ông Phạm Văn M cho Đoàn Tuấn A thuê nhà nhưng không biết Tuấn A sử dụng nhà làm địa điểm để tàng trữ ma túy và tổ chức cho những người khác sử dụng ma túy, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Nguyễn Thị T, Trần Thị H, Đặng Mùi P và Nguyễn Thị Thu H không biết Tuấn A tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho Đoàn Tuấn A, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý.

Những nội dung đã nêu ở trên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ các điểm a, b, c khoản 2 Điều 255; điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Tuấn A phạm 02 tội, tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Tuấn A 07 (Bẩy) năm 09 (Chín) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 06 (Sáu) năm 03 (Ba) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung cả hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 29/9/2021.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 03 túi nilon trong đó 01 túi chứa 40 viên nén màu đỏ, 02 túi chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bộ sử dụng ma túy tự chế và 01 bật lửa gas.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H với Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 18/02/2022)

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Tuấn A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

555
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về