Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 92/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 95/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2021/QĐXXST-HS ngày 10/12/2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Bảo N, sinh ngày 16/11/1994 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn 8, xã L, huyện B, tỉnh Quảng Bình; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; con ông: không xác định được; con bà: Lê Thị T, sinh năm 1959; vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không.

Quá trình nhân thân: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, sau đó xét xử phúc thẩm tại TAND tỉnh Quảng Bình, xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ, đã xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bố Trạch từ ngày 11/9/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: bà Lê Thị T, sinh năm 1959; nơi cư trú: Thôn 8, xã L, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 10/9/2021, Nguyễn Bảo N điều khiển xe mô tô BKS 73F1-X từ xã L vào ngã ba sân bay TP. Đ, tỉnh Quảng Bình để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N đã gặp một nam thanh niên không rõ danh tính hỏi mua ma túy thì đối tượng này đồng ý đi mua giúp cho N. N đưa cho nam thanh niên 500.000 đồng và đứng đợi khoảng 10 phút thì đối tượng này quay lại đưa cho N 06 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, N bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô quay về nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi N điều khiển xe mô tô về đến đoạn đường liên thôn gần cổng Trường THCS L thuộc thôn 8, xã L, huyện B thì bị Tổ tuần tra Công an huyện Bố Trạch dừng xe kiểm tra hành chính, phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ 06 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, N khai nhận đó là ma túy dạng Hồng Phiến.

Tạng vật thu giữ: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch thu giữ 06 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”; 01 xe mô tô BKS 73F1-X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu đen; 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpal, màu hồng. Quá trình điều tra Công an huyện Bố Trạch đã xử lý trả lại 01 xe mô tô BKS 73F1-X và 02 điện thoại cho chủ sở hữu các vật chứng do không liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 1127/GĐ-PC09 ngày 16/9/2021 của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Bình, xác định: 06 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY” là chất ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,615g. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/ 2018 của Chính phủ”.

Tại Cáo trạng số 92/THQCT- VKSBT ngày 24/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Bố Trạch để xét xử bị cáo Nguyễn Bảo N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Bảo Ngọc xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ bắt tạm giữ, tạm giam 11/9/2021. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời nói sau cùng, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm và hiện trường nơi xảy ra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để khẳng định: vào lúc 20 giờ ngày 10/9/2021 tại đường liên thôn, gần Trường THCS L (thuộc thôn 8, xã L, huyện B, tỉnh Quảng Bình), lực lượng Công an huyện Bố Trạch phát hiện và bắt giữ quả tang Nguyễn Bảo N đang cất giấu trong người 06 viên ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Kết luận giám định xác định 06 viên ma túy có tổng khối lượng 0,615g. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Bảo N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét hành vi, mức độ, hậu quả phạm tội của bị cáo gây ra trong vụ án này thấy rằng: Bị cáo là người đủ năng lực để nhận thức ma túy (Methamphetamine) là chất gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm do sử dụng ma túy, nhưng do bản thân là người sử dụng ma tuý nên bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước, mà còn đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình và làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, bảo đảm đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và quá trình nhân thân: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về nhân thân: Năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được nêu ở trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tự cải tạo và rèn luyện bản thân, mà còn cố ý tàng trữ ma tuý, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,615g. Điều này thể hiện có ý thức coi thường pháp luật, nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ sức răn đe và giáo dục, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm ma túy trên địa bàn.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện nay không có nghề nghiệp, thu nhập không có nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: bà Lê Thị T là chủ sở hữu xe mô tô BKS 73F1- X và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu đen, quá trình điều tra đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Xét 0,439 gam chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô BKS 73F1-X và 02 điện thoại di động điện thoại không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bảo Ngọc phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 11/9/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm đển đảm bảo thi hành án (theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử).

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, Miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Bảo N.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín có số niêm phong 1127/GĐ - PC09 “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong ngày 16/9/2021 của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Bình, bên trong phong bì chứa 0,439 gam chất ma túy loại Methamphetamine hoàn trả sau giám định.

(Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bố Trạch theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/12/2021 được lập giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử buộc bị cáo Nguyễn Bảo N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 92/2021/HS-ST

Số hiệu:92/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về