Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 84/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm là Hội trường xét xử Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và tại điểm cầu thành phần là Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng, thành phần gồm có:

1 Ông Nguyễn Đức Hoàng- Cán bộ Tòa án nhân dân quận Lê Chân 2 Bà Đỗ Thị Bích Huyền- Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân.

3. Cán bộ Trại giam Công an thành phố Hải phòng, Cán bộ Đội thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp Công an quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.

Tiến hành xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số:

74/2022/HSST ngày 01 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

235/2022/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Quang V, sinh năm 198x; nơi sinh tại: Hải Phòng; giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Số 209 L, phường H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: số 24/13/346 T, phường H, Quận Lê Chân, Hải Phòng; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lê Văn C, sinh năm 195x và bà Dương Thị N, sinh năm 196x; gia đình có 03 chị em, V là con thứ ba; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Bản án số 81/2011/HSST ngày 05/7/2011 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 12 năm tù về tội giết người, thời hạn tù tính từ ngày 11/9/2010, ngày 21/01/2020 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 11/3/2022 đến ngày 18/3/2022 chuyển tạm giam tại Trại giam Công an thành phố Hải Phòng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút ngày 10/3/2022 tổ công tác Công an phường H, quận Lê Chân, Hải Phòng, phát hiện Lê Quang V và Phạm Thị T, sinh năm 199x, trú tại:

91/202 M, phường D, quận Lê Chân, Hải Phòng, đang đứng trước cửa nhà số 24/13/346 T có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tiến hành kiểm tra phát hiện thu giữ trong túi áo ngực bên trái T đang mặc 01 gói giấy màu trắng kích thước 1x1cm nghi là ma túy(mẫu số1); phát hiện thu giữ trong túi quần phía sau bên trái V có 01 ví da màu đen có khóa kéo kích thước 5x8 cm bên trong có 01 túi nilong màu trắng viền mép đóng mở màu đỏ kích thước 5x5cm chứa 02 viên nén màu đỏ hình tròn( mẫu số 2) 08 túi nilong màu trắng chứa tinh thể màu trắng, bao gồm: 01 túi viền mép đóng mở màu đỏ kích thước 4x6cm( mẫu số 3); 01 túi viền mép đóng mở màu đỏ kích thước 2x1cm, 05 túi viền mép đóng mở màu đỏ kích thước 1x1cm và 01 túi viền mép đóng mở màu xanh kích thước 2x2cm ( mẫu số 4) nghi đều là ma túy. Ngoài ra còn thu của V 01 điện thoại Iphone 6s plus. Lực lượng Công an đã đưa V và T cùng vật chứng về trụ sở Công an Phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Đến 17 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan công an tiến hành khám xét khẩn cấp nhà số 24/13/346 T, phường H, quận Lê Chân, Hải Phòng thu giữ tại kệ đựng đồ tầng 2 có: 01 hộp giấy màu xanh bên trong có 01 bộ đựng dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 lọ nhựa màu trắng có nắp màu đỏ đục lỗ gắn 01 coong thủy tinh. 03 ống hút nhựa màu trắng; 01 bật lửa màu xanh, 01 ống hút nhựa màu đen một đầu cắt vát.

Tại Bản kết luận giám định số 85/KLGĐ-MT, ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,04 gam là loại Methamphetamine;

02 viên nén màu đỏ của mẫu số 02 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2 gam là loại Methamphetanime; tinh thể màu trắng của mẫu số 03 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,33 gam, là loại Methamphetamine; tinh thể màu trắng của mẫu số 04 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,61 gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Lê Quang V khai: Khoảng 10 giờ ngày 10/3/2022 V nhận điện thoại của một người phụ nữ (chưa xác minh được lai lich địa chỉ) xưng là bạn của Phạm Thị T gọi đến, V rủ T và người phụ nữ này đi uống nước và hẹn gặp nhau ở quán nước trên đường T. Tại quán nước T hỏi V muốn đến chỗ ở trọ của V tại 24/13/346 T để xem nhà, nếu V không ở nữa thì T sẽ thuê lại. V đồng ý và bảo T và bạn T đứng đợi ở đầu ngõ 346 T để V đi lấy chìa khóa mở cửa. Sau đó một mình V đi đến nhà bố mẹ lấy chìa khóa xong thì đi đến khu vực đường tàu Mê Linh mua ma túy để sử dụng. Tại đây V gặp một người nam giới không quen biết mua 1.300.000 đồng được 02 viên hồng phiến đựng trong túi nilon và 08 túi nilon chứa ma túy đá. V cất số ma túy trên vào trong chiếc ví da màu đen rồi đút ví vào túi quần. Khi về đến đầu ngõ 346 T, V dẫn T và bạn T vào xem nhà, tại đây T xin V ma túy để sử dụng, V lấy túi nilon kích thước 4x6cm đựng ma túy đá trong ví da đã mua trước đó cho một ít vào một mảnh giấy màu trắng và gói lại thành kích 1x1 đưa cho T. V cất túi nilon chứa ma túy đá trên vào ví da cho vào túi quần bên trái phía sau đang mặc. Đến khoảng 14 giờ thì T và bạn T về, V có việc phải đi nên cùng đi ra cửa. Khi V đang đứng khóa cửa, T đứng bên cạnh, bạn của T đi đâu không rõ thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang như trên. Bộ sử dụng dụng cụ ma túy đá khi cơ quan khám xét thu giữ tại của V mua trước đó để sử dụng cho bản thân.

Phạm Thị T khai phù hợp với lời khai của V. Ngày 09/3/2022 T đi chơi với một bạn của T tên là V, do không có điện thoại nên T mượn điện thoại của V gọi cho V để hỏi thuê lại nhà của V đang ở, nhưng V không nghe máy. Đến ngày 10/3/2022 V goi điện lại cho T nói là V rủ đi uống nước. T đi taxi đến khu vực chợ C thì V đi xe đạp điện đến đón rồi cả hai đi đến quán nước tại đường T gặp V. Sau đó T và V đợi V ở đầu ngõ 346 T để V đi lấy chìa khóa mở cửa. Do T biết V nghiện ma túy và do đang có chuyện buồn nên T xin V một ít ma túy mục đích để lúc nào buồn chán thì sẽ dùng. T cất gói ma túy V cho vào túi ngực bên trái rồi cùng V đi về. Khi ra cửa V đi ra ngõ trước, còn T đứng đợi V khóa cửa thì bị lực lượng công an kiểm tra. T không biết V cất giấu ma túy trong người và số ma túy V cho T ở đâu mà có. T không biết lai lịch địa chỉ cụ thể của V.

Bản Cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố Lê Quang V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Quang V khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ nguyên quan điểm truy tố Lê Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đề nghị, Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Quang V từ 48 - 54 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2022; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng của vụ án: Theo biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục thi hành án dân sự quận Lê chân ngày 27/7/2022 căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 phong bì niêm phong số 85MT/ PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải phòng chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 chiếc ví da màu đen có khóa kéo kích thước 5x8cm; 01 hộp giấy màu xanh bên trong có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 lọ nhựa màu trắng có nắp màu đỏ dọc lỗ có gắn 01 coong thủy tinh và 01 ống hút nhựa màu trắng; 01 bật lửa màu xanh 01 ống nhựa màu đen một đầu được cắt vát; Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại Iphone màu xám, IMEI: 354952072063344: Về án phí: Bị cáo Lê Quang V phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này đối với việc Lê Quang V cho Phạm Thị T ma túy, T khai xin ma túy để khi nào buồn chán thì sẽ sử dụng, do T mới cất giữ ma túy và chưa sử dụng nên không xử lý V về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai do T xin ma túy nói là để sử dụng nhưng không biết T sẽ sử dụng hay làm gì khác, hành vi này có dấu hiệu của tội Tổ chức trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân sẽ tiếp tục xem xét khi có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lê Quang V tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, Bản kết luận giám định số 85/KLGĐ, ngày 14/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Khi gặp Phạm Thị T và V đến hỏi thuê lại nhà của bị cáo V, bị cáo V đồng ý và bảo T và V đứng chờ. Sau đó bị cáo đi một mình đến khu vực đường tàu M Hải Phòng mua của người nam giới không quen biết 1.300.000đồng được 02 viên hồng phiến và 08 túi nilon ma túy đá. V cất giấu số ma túy đó vào ví da màu đen vào túi quần. khi về đến đầu ngõ bị cáo dẫn Phạm Thị T và V vào xem nhà. Sau đó Phạm Thị T xin bị cáo V ma túy đá để sử dụng, bị cáo đã cho T một ít ma túy đá vào mảnh giấy và gói lại thành kích thước 1x1cm. Sau khi T chuẩn bị ra về thì bị cáo V và Phạm Thu T bị công an kiểm tra bắt quả tang cùng số ma túy. Tại Bản kết luận giám định số 85/ KQGĐ-MT ngày 14/3/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,04 gam là loại Methamphetamine; 02 viên nén màu đỏ của mẫu số 2 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2gam là loại Methamphetamine; tinh thể màu trắng của mẫu số 03 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,33 gam là loại Methamphetamine; tinh thể màu trắng mẫu số 04 gửi giám định là ma túy có khối lượng 2,61gam, là loại Methamphetamine.

Do vậy đủ căn cứ xác định bị cáo có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là Methamphetamine có tổng khối lượng là 3,18 gam mục đích để sử dụng cho bản thân bị công an phát hiện bắt quả tang. Với hành vi trên, bị cáo Lê Quang V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản1 Điều 249 của Bộ luật hình sự Trong vụ án này, đối với hành vi bị cáo V cho Phạm Thu T ma túy, T khai xin ma túy để khi nào buồn chán sẽ sử dụng và do T mới cất giữ ma túy chưa sử dụng. Hành vi này có dấu hiệu về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân sẽ tiếp tục xem xét khi có căn cứ.

Đi với Phạm Thị T có hành vi tàng trữ 0.04 gam Methamphetamine do T chưa có tiền án, tiền sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Thị T.

Vậy Bản cáo trạng số 84/CT-VKSTN ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống ma túy. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không có ý thức phòng tránh mà đã coi thường pháp luật cất giấu ma túy để sử dụng không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn làm ảnh hưởng tới sức khỏe của bản thân rồi trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Loại tội phạm này ngày càng có chiều hướng gia tăng. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt:

Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian như mức đề xuất hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân tại phiên tòa mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Song xét bị cáo Lê Quang V không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Vậy xác định bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lê Quang V.

[6] Về xử lý vật chứng Tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng gồm có:

- Phong bì niêm phong số 85MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định, ma túy là danh mục chất cấm lưu hành thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước; 01 chiếc ví da màu đen có khóa kéo kích thước 5x8cm đây là công cụ bị cáo dùng cất ma túy trong đó; 01 hộp giấy màu xanh bên trong có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm một lọ nhựa màu trắng có nắp màu đỏ dọc lỗ gắn 01 coong thủy tinh, 3 ống hút nhựa màu trắng; 01 bật lửa màu xanh, 01 ống hút nhựa màu đen một đầu được cắt vát. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6Plus màu xám, IMEI:

354952072063344. Đây là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội do đó áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Vinh.

[7] Về các nội dung khác:

Trong vụ án này còn có đối tượng nam giới bán trái phép chất ma túy cho bị cáo V vào ngày 10/3/2022 và người phụ nữ tên Vi theo lời khai của Phạm Thị T đi cùng T đến nhà bị cáo V, do không xác định được căn cước lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[8] Về án phí :

Bị cáo Lê Quang V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử: Tuyên bị cáo Lê Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Lê Quang V 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý", thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 11/3/2022.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 85MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định, ma túy là danh mục chất cấm lưu hành thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước; 01 chiếc ví da màu đen có khóa kéo kích thước 5Xaxc 8cm đây là công cụ bị cáo dùng cất ma túy trong đó; 01 hộp giấy màu xanh bên trong có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm một lọ nhựa màu trắng có nắp màu đỏ dọc lỗ gắn 01 coong thủy tinh, 3 ống hút nhựa màu trắng; 01 bật lửa màu xanh, 01 ống hút nhựa màu đen một đầu được cắt vát ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/7/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân – Hải Phòng) - Trả lại bị cáo Lê Quang V 01 điện thoại di động Iphone 6Plus màu xám, IMEI: 354952072063344 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/7/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân – Hải Phòng) 3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Lê Quang Vinh phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Quang V có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2022/HS-ST

Số hiệu:84/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về