Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2019/HSST-QĐ ngày 01/11/2019 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXXST-HS ngày 01/11/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Huy K; giới tính: Nam; sinh năm: 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Là sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Mạnh Đ và bà Nguyễn Thị Y; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 30/3/2019.

(có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Mạnh Đ, sinh năm 1958 Nơi cư trú: 6x/x TMN, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 30/3/2019, tổ tuần tra Công an Quận 4 tuần tra địa bàn. Khi đến trước chung cư Grand Riverside địa chỉ số 278 Bến Vân Đồn, Phường 02, Quận 4 phát hiện Nguyễn Huy K đang ngồi trên xe gắn máy hiệu Honda Air Blade màu xanh đen, biển số 59P2 - 728.xx dừng trước chung cư, có biểu hiện nghi vấn nên tổ tuần tra tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trên baga xe máy của K có 01 hộp giấy màu trắng bên trong có 01 gói nylon chứa 05 viên nén màu xám và 02 viên nhộng màu xanh nên tổ tuần tra thu giữ và đưa Nguyễn Huy K về trụ sở Công an Phường 02, Quận 4 để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 819/KLGĐ-H ngày 02/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Đặng Q (người chứng kiến), Nguyễn Huy K và hình dấu Công an Phường 02, Quận 4 bên trong có:

- 05 viên nén màu xám được ký hiệu mẫu m1 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,2518 (hai phẩy hai năm một tám) gam, loại MDMA;

- 02 viên nhộng màu xanh được ký hiệu mẫu m2 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3784 (không phẩy ba bảy tám bốn) gam, loại MDMA.

Tại cơ quan điều tra, lúc đầu Nguyễn Huy K khai nhận số ma túy bị thu giữ là của 01 người tên B (thường gọi là anh Bình), B đưa cho K để K đi giao cho khách ở Quận 1, Quận 2 và Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. K là người giao ma túy nhưng B là người nhận tiền, Bình trả công cho Khánh nhưng Khánh chưa nhận tiền công nào từ Bình. Khoảng 00 giờ 15 phút, ngày 30/3/2019, K tiếp tục đi giao ma túy. Khi K đang đứng trước chung cư Grand Riverside đợi khách đến giao thì bị tổ tuần tra Công an Quận 4 kiểm tra, thu giữ vật chứng và đưa K về trụ sở Công an Phường 02, Quận 4 để làm việc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Huy K thay đổi lời khai như sau: Vào ngày 22/3/2019, khi K đi chơi cùng bạn tại quán bar ở đường Lê Lai, Quận 1 thì K có quen 01 người đàn ông Việt Kiều tên D (không rõ lai lịch). Người đàn ông này đã cho K 07 viên thuốc lắc để sử dụng. Khánh đồng ý nhận và cất giấu vào t rong túi áo khoác của K đang mặc rồi đi về nhà ở B. Đến khoảng 00 giờ ngày 30/3/20 19 thì có 01 người bạn của K tên L (không rõ lai lịch) gọi đến số điện thoại 093336xxx của K rủ K đến chung cư Grand Riverside, số 278 Bến Vân Đồn, Phường 02, Quận 4 để sử dụng ma túy. K đồng ý và điều khiển xe Honda Air Blade màu xanh đen, biển số 59P2 - 728.xx đến địa điểm trên. Khi đi K cất giấu 07 viên thuốc lắc bao gồm 05 viên nén màu xám và 02 viên nhộng màu xanh đựng trong 01 gói nylo n để trong hộp màu trắng có chữ “SKINNO” ở túi áo khoác phía trước bên trái K đang mặc. Đến trước chung cư Grand Riverside, K đang chờ L xuống dẫn lên căn hộ thì K bị tổ tuần tra Công an Quận 4 kiểm tra, thu giữ vật chứng và đưa K về Công an Phường 02, Quận 4 để làm việc.

Qua xác minh, Cơ quan điều tra-Công an Quận 4 đã tiến hành ghi lời khai Võ Phan Chiêu B, đồng thời cho K nhận dạng và đối chất với B. B khai không giao ma túy cho K đi bán, B cũng không bán ma túy cho ai. Qua khám xét nơi ở của Bình tại căn hộ B26.04 chung cư Gold View, số 346 Bến Vân Đồn, Phường 01, Quận 4 , Cơ quan điều tra Công an Quận 4 không thu giữ được gì liên quan đến ma túy. Cơ quan điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở để xử lý đối với Võ Phan Chiêu B, đồng thời cũng không xác định được hành vi vận chuyển hoặc bán ma túy của K.

Đối với 01 xe máy hiệu Air Blade màu xanh đen, mang biển số 59P2-728.xx, số máy JF63E2140450, số khung RLHJF6324HZ116781. Qua xác minh, xe này là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Mạnh Đ (là cha ruột của K). Ngày 29/3/2019, ông Đ cho K mượn xe để đi học. Ông Đ không biết K sử dụng xe để làm phương tiện đến chung cư Grand Riverside sử dụng ma túy, nên Công an Quận 4 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe này cho ông Đ.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 819 là ma túy thu giữ của Nguyễn Huy K còn lại sau giám định; 01 hộp giấy màu trắng nhãn hiệu SKINNO;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng bạc đã qua sử dụng, có ốp lưng bằng nhựa, số Imei: 3553740891335 9. Bị cáo khai điện thoại di động trên là tài sản của cha ruột tên là Nguyễn Mạnh Đ cho bị cáo mượn để sử dụng. Ngày 30/3/2019, L đã gọi vào điện thoại này để rủ Khánh cùng sử dụng ma túy chung.

- Số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng thu giữ của bị cáo là tiền gia đình cho bị cáo để tiêu xài cá nhân.

Tại Bản cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 12/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Huy K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Huy K có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị cáo đã ăn năn, hối cải, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về để đi học.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Huy K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 , đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; Đề nghị phạt tiền bổ sung là 5.000.000 (năm triệu) đồng; Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 819 là ma túy thu giữ của Nguyễn Huy K còn lại sau giám định; Trả lại cho bị cáo số tiền 1.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; Đối với tài sản khác đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

2 Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Huy K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Biên bản bắt người phạm tội quả tang có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Huy K đã có hành vi cất giấu 05 viên nén màu xám là ma túy ở thể rắn có khối lượng 2,2518 (hai phẩy hai năm một tám) gam, loại MDMA và 02 viên nhộng màu xanh là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3784 (không phẩy ba bảy tám bốn) gam, loại MDMA nhằm mục đích sử dụng dần. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 là có căn cứ.

3 Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội . Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 .

4 Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 819 là ma túy thu giữ của Nguyễn Huy K còn lại sau giám định và 01 hộp giấy màu trắng nhãn hiệu SKINNO, đây là vật cấm lưu hành và là vật dụng để cất giấu ma túy, nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng bạc đã qua sử dụng, có ốp lưng bằng nhựa, số Imei: 3553740891335 9. Bị cáo khai nhận điện thoại này là của cha ruột tên là Nguyễn Mạnh Đ cho bị cáo mượn để sử dụng. Ngày 30/3/2019, L đã gọi vào điện thoại này liên lạc với bị cáo về việc sử dụng ma túy chung. Ông Nguyễn Mạnh Đ xin nhận lại điện thoại này. Hội đồng xét xử xét ngoài lời khai của bị cáo và ông Đ thì không có chứng cứ nào chứng minh điện thoại này là của ông Đ, bị cáo đã sử dụng điện này làm phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng thu giữ của bị cáo, bị cáo khai nhận đây là tiền gia đình cho bị cáo để tiêu xài cá nhân, xét số tiền này không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 :

Xử phạt: Nguyễn Huy K 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 :

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 819 là ma túy thu giữ c ủa Nguyễn Huy K còn lại sau giám định và 01 hộp giấy màu trắng nhãn hiệu SKINNO;

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng bạc đã qua sử dụng, có ốp lưng bằng nhựa, số Imei: 3553740891335 9;

Trả lại cho bị cáo Khánh số tiền là 1.000.000 (một triệu) đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 19/6/2019).

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và Lệ Phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 , 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2019/HS-ST

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về