TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2022/TLST-HS ngày 07/9/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXST-HS ngày 09/9/2022 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Phạm Văn Q, sinh ngày 13/9/1987.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Tiên H 2, xã Vinh Q, huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố: Phạm Văn B (đã chết); Mẹ: Dương Thị B1, sinh năm 1957; Vợ, con: Chưa có; Anh, chị em ruột: Có 03 chị em, bị cáo là thứ ba.
- Tiền án: 02 tiền án.
+ Năm 2017 Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa tuyên phạt 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản.
+ Năm 2018 bị Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Tiền sự: Không - Nhân thân của bị cáo:
+ Ngày 23/9/2010 bị UBND xã Vinh Quang áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa người nghiện ma túy vào cai giai đoạn I tại Công trường 06 tại Quyết định số 66/QĐ-CT;
+ Ngày 25/11/2010 bị UBND huyện Chiêm Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện bắt buộc giai đoạn II tại Công trường 06 tại Quyết định số 2854/QĐ-CT;
+ Ngày 21/12/2011 bị UBND huyện Chiêm Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy về quản lý giai đoạn III tại cộng đồng tại Quyết định số 3275/QĐ-CT;
+ Ngày 01/7/2016, bị Công an huyện Chiêm Hóa xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản tại Quyết định số 36/QĐ- XPHC;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 01/6/2022, Phạm Văn Q, sinh năm 1987, trú tại thôn Tiên H 2, xã Vinh Q, huyện Chiêm H đi nhờ xe của người đi đường đến thôn Làng L, xã Xuân Q, huyện Chiêm H mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đến nơi Q gặp một người đàn ông không quen biết tự giới thiệu tên là "Tùng". Sau khi trao đổi, người đàn ông đó bán cho Q 01 gói nhỏ Heroine (có đặc điểm bên ngoài cuốn bằng băng dính màu đen, tiếp đến là túi ni lon màu trắng, trong cùng là Heroine ở dạng chất bột vón cục màu trắng) với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine, Q cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi nhờ xe của người đi đường đến thôn Bản Th, xã Trung H, huyện Chiêm H chơi. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến khu vực thôn Bản Th, xã Trung H, Q xuống xe đi bộ được một đoạn thì gặp tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa đang làm nhiệm vụ. Nghi Q có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổ công tác yêu cầu Q đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã Trung H để làm việc. Quá trình làm việc, Q đã tự giác giao nộp gói Heroine có đặc điểm nêu trên, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.
Cùng ngày, tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể đối với Phạm Văn Q. Kết quả dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.
Tại Kết luận giám định số 648/KL-KTHS ngày 06/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng thu giữ của Phạm Văn Q là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,103 gam.
Vật chứng: 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.
Cáo trạng số: 72/CT-VKSCH ngày 06/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố: Phạm Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt chính đối với bị cáo: Đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn Q từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 01/6/2022.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Phạm Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo Phạm Văn Q được niêm phong có chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.
Đề nghị buộc bị cáo Phạm Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định. Bị cáo nhất trí luận tội, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Bị cáo nói lời sau cùng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của khai bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/6/2022 tại thôn Bản Tháng, xã Trung Hà, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, Phạm Văn Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,103g (không phẩy một không ba gam) Heroine, mục đích để sử dụng. Như vậy có đủ cơ sở xác định bị cáo Phạm Văn Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Bị cáo Phạm Văn Q là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu là người đã nhiền lần bị đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tại cộng đồng, đã có 02 tiền án: “Tại bản án số 18/2017/HSST ngày 11/5/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp (bị cáo chấp hành xong bản án ra trại ngày 27/11/2017), tại bản án số 88/2018/HSST bị Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bản án này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm (bị cáo đã chấp hành xong bản án ra trại ngày 15/8/2021) nhưng bị cáo vẫn không cho đó là bài học rèn luyện cho bản thân, không có ý chí khắc phục, sửa chữa sai lầm mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội lần này của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, thể hiện tính coi thường pháp luật, gây bất bình trong quần chúng nhân dân nên cần áp dụng khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự cách ly bị cáo Phạm Văn Q ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo. Đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Hội đồng xét xử thấy mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, có căn cứ.
[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Phạm Văn Q xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Văn Q, quá trình điều tra không xác định được tuổi, địa chỉ, do vậy không có căn cứ xử lý trong vụ án.
[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Phạm Văn Q Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền nên không xem xét.
[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 05(năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 01/6/2022.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Phạm Văn Q trong 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau trên các mép dán có chữ kỹ xác nhận của Phạm Văn Q, thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật vụ Phạm Văn Q, giám định ngày 02/6/2022.
Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chiêm Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa ngày 16/9/2022.
4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 23/9/2022.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST
Số hiệu: | 74/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về