Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

BÙI VĂN TH; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1966 tại Bắc Kạn; nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện nay: Thôn KT, xã NH, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Kim T và bà Nguyễn Thị T; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/02/2023, đến ngày 02/3/2023 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ, cho tại ngoại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 21/02/2023, Bùi Văn Th ra thôn SH, xã NH ăn cưới rồi đi xe khách xuống thị trấn ĐT, huyện CM với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến ngã ba YĐ, Th xuống xe, đi bộ vào khu vực cầu cứng YĐ thuộc tổ 9, thị trấn ĐT thì gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ.

Người này hỏi Th “Có chơi ma túy không?”, Th trả lời: “Có” và đưa cho người này số tiền 200.000 đồng, người đó đưa cho Th 02 gói nhỏ ma túy. Th cất 02 gói nhỏ ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc trên người và đi bộ đến khu vực bãi đất trống ở bên phải đường BOT hướng Thái Nguyên - Bắc Kạn (Khu vực phía sau trạm Kiểm lâm YĐ) thuộc địa phận tổ 9, thị trấn ĐT, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác của Công an thị trấn ĐT, huyện CM kiểm tra, phát hiện, bắt người phạm tội quả tang (Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 21/2/2023) Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang thể hiện: Tổ công tác kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc trên người Th 02 gói nhỏ (Nghi là chất ma túy) gồm: 01 gói được gói bằng giấy (Một mặt màu tím, một mặt màu trắng) bên trong chứa chất màu trắng dạng cục và bột, 01 gói được gói bằng giấy bạc (Một mặt màu trắng bạc và một mặt màu trắng) bên trong có chứa chất bột màu trắng hồng (Tổ công tác niêm phong toàn bộ các gói trên trong phong bì ký hiệu T).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở và công trình phụ cận nhà của Bùi Văn Th, kết quả không phát hiện và tạm giữ đồ vật gì liên quan đến vụ việc.

Cơ quan điều tra đã tiến hành mở, đóng niêm phong thử phát hiện nhanh và cân xác định khối lượng chất ma túy trong phong bì ký hiệu T.

- Kết quả thử phát hiện nhanh chất ma túy xác định: Trong 02 gói nhỏ thu giữ được đều có chứa ma túy dạng heroin.

- Kết quả cân xác định khối lượng chất ma túy: Chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu T có khối lượng là 0,178g (Không phẩy một bảy tám gam), chất bột màu trắng hồng trong phong bì ký hiệu T có khối lượng là 0,008g (Không phẩy không không tám gam).

Sau khi thử phản ứng nhanh và cân xác định khối lượng, Cơ quan Điều tra gói toàn bộ chất màu trắng dạng cục, bột và chất bột màu trắng hồng vào 02 gói giấy màu trắng (01 gói chứa chất màu trắng dạng cục và bột được đựng trong túi nilon trong suốt ký hiệu T.N, 01 gói chứa chất màu trắng hồng dạng bột được đựng trong túi nilon trong suốt ký hiệu T.H), vào phong bì niêm phong ký hiệu T1 gửi đi giám định. Phong bì niêm phong ban đầu cùng giấy gói tang vật cũ được niêm phong trong phong bì ký hiệu T2 bảo quản theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 76/KL-KTHS ngày 28/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong túi nilon ký hiệu T.N trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine có khối lượng là 0,178g (Không phẩy một bảy tám gam).

- Mẫu chất bột màu trắng lẫn màu hồng trong túi nilon ký hiệu T.H trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine và loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,008g (Không phẩy không không tám gam).

Sau giám định, mẫu chất trong túi nilon ký hiệu T.N còn lại: 0,122g (Không phẩy một hai hai gam), mẫu chất trong túi nilon ký hiệu T.H đã dùng để tiến hành giám định hết, cùng phong bì bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T46 hoàn trả lại cho cơ quan trưng cầu.

Tại phiếu xét nghiệm kiểm tra chất ma túy ngày 21 tháng 02 năm 2023 của Công an huyện CM thể hiện Bùi Văn Th dương tính với chất ma túy.

Quá trình điều tra còn xác định được Bùi Văn Th khi là Công an viên thôn KT, xã NH, huyện CM đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện CM tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến vì có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2015, 2016 và 2017.

Tại Cáo trạng số 26/CT-VKSCM ngày 20 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn truy tố Bùi Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Bùi Văn Th thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm của mình. Lời khai nhận của Th phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, Th còn khai nhận số tiền sử dụng để mua ma túy là của bị cáo lao động mà có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CM giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Văn Th và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

+ Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1, khoản 2/Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Th từ 12 đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ.

Thấy rằng Bùi Văn Th không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Bùi Văn Th.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong ký hiệu T2 và T46 là vật chứng của vụ án.

- Bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không bào chữa, không tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, do bị cáo cung cấp: Xét thấy đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 21/02/2023, tại khu vực bãi đất trống ở bên phải đường BOT hướng Thái Nguyên - Bắc Kạn (Khu vực phía sau trạm Kiểm lâm YĐ) thuộc địa phận tổ 9, thị trấn ĐT, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, Bùi Văn Th có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine và Methamphetamine với tổng khối lượng 0,186g (Không phẩy một tám sáu gam), mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên vẫn thực hiện. Hành vi của Bùi Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c) Heroine...Methamphetamine...có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam;

...

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tội phạm Bùi Văn Th đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, là nguyên nhân làm phát sinh và gia tăng nhiều loại tội phạm, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện Th độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong thời gian là Công an viên của thôn KT, xã NH, huyện CM, bị cáo được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện CM tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến vì có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2015, 2016 và 2017 do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về hình phạt chính: Xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, việc áp dụng hình phạt bổ sung là không khả thi do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu T2, mặt trước phong bì có dòng chữ “Giấy gói cũ vụ: Bùi Văn Th”, tại mép dán phong bì có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 05 (Năm) chữ ký không đọc được, 01 (Một) chữ ký “Th”, 06 (Sáu) dòng chữ: “Âu Thị Hồng Nhung”, “Nguyễn Đức Hùng”, “Dịp Thanh Hà”, “Bùi Văn Th”, “Nông Văn Trần”, “Nguyễn Tiến Đạt” và 02 (Hai) hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, bên trong có phong bì và bao gói cũ: Xét thấy không có giá trị, cần tịch thu, tiêu hủy - Đối với 01 (Một) phong bì niêm phong ký kiệu T46, mặt trước phong bì có dòng chữ “Vụ: Bùi Văn Th (1966) tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại mép dán mặt sau phong bì có 03 (Ba) chữ ký không đọc được và 02 (Hai) hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có 0,122g (Không phẩy một hai hai gam) ma túy loại Heroin và phong bì bao gói cũ: Xét thấy là vật cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị do đó cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về vấn đề khác: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Bùi Văn Th, quá trình điều tra không xác định được họ, tên, địa chỉ do đó không có cơ sở để xử lý, xét thấy là phù hợp.

[8] Về quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân: Xét thấy quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, cần được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2/Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Th 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 21/02/2023 đến ngày 02/3/2023.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu T2 , mặt trước phong bì có dòng chữ “Giấy gói cũ vụ: Bùi Văn Th”, tại mép dán phong bì có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có 05 (Năm) chữ ký không đọc được, 01 (Một) chữ ký “Th”, 06 (Sáu) dòng chữ: “Âu Thị Hồng Nhung”, “Nguyễn Đức Hùng”, “Dịp Thanh Hà”, “Bùi Văn Th”, “Nông Văn Trần”, “Nguyễn Tiến Đạt” và 02 (Hai) hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, bên trong có phong bì và bao gói cũ.

- 01 (Một) phong bì niêm phong ký kiệu T46, mặt trước phong bì có dòng chữ “Vụ: Bùi Văn Th (1966) tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại mép dán mặt sau phong bì có 03 (Ba) chữ ký không đọc được và 02 (Hai) hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có 0,122g (Không phẩy một hai hai gam) ma túy loại Heroin và phong bì bao gói cũ.

(Tình trạng, số lượng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/6/2023 giữa Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh Bắc Kạn).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2023/HS-ST

Số hiệu:46/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về