Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 04 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2023/TLST-HS ngày 02/03/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 21/03/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh T (tên gọi khác Nguyễn Mạnh C), sinh năm 1976 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn V, xã L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tuấn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị P; có vợ là Lưu Thị H, sinh năm 1986 và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2008; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 25/05/2020, Tòa án nhân dân thành phố Phủ lý, tỉnh Hà Nam quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 21 tháng, chấp hành xong ngày 28/02/2022; nhân thân: Ngày 21/10/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 05 năm tù về tội: “Cướp tài sản”. Ngày 10/04/2012, UBND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Ngày 13/01/2015, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 04/6/2018, Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/02/2020, Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 2.000.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 31/03/2020, Công an xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 30/12/2022, tạm giam từ ngày 05/01/2023 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lưu Thị H, sinh năm 1986; trú tại: Thôn V, xã L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Đức M, sinh năm 1979; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/12/2022, Nguyễn Mạnh T điều khiển xe môtô biển kiểm soát: 90H7-08.. từ nhà đi đến khu vực Chợ lợn thuộc xã Bối Cầu, huyện Bình Lục tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, T gặp một người đàn ông khoảng 60 tuổi (T không rõ nhân thân, lai lịch), T nói với người này: “Anh để cho em hai trăm nghìn” (ý T hỏi mua ma túy của người đàn ông) rồi lấy ra số tiền 200.000 đồng đưa cho người này, người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 gói giấy bạc màu vàng. Biết đó là gói ma túy, T cầm lấy giữ trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe môtô quay trở về. Khi đi đến khu vực thôn V, xã L, thành phố Phủ Lý, T bị lực lượng Công an xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra. Tại chỗ, T tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu vàng, kiểm tra bên trong thấy có chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai nhận đó là gói ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 và 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát: 90H7-08...

Tại bản Kết luận giám định số 07/KL-KTHS ngày 04/01/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,182 gam, loại Heroine”.

Bản Cáo trạng số 25/CT-VKS-PL ngày 28/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Mạnh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Mạnh T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự:

- Hình phạt chính: Xử phạt Nguyễn Mạnh T từ 36 tháng đến 42 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lưu Thị H (vợ bị cáo) trình bày, xác nhận vật chứng thu giữ trong vụ án chiếc xe môtô biển kiểm soát:

90H7-08.. là tài sản hợp pháp của chị trong thời kỳ hôn nhân, chị không biết về việc bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô của chị để đi mua ma túy. Chị H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, trả lại tài sản này cho chị để tiếp tục sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 30/12/2022, tại khu vực thôn V, xã L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Mạnh T bị lực lượng Công an xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,182 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

4.1. Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; có nhân thân xấu do có 01 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2020 và chưa hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bản thân đã từng bị kết án về các tội: “Cướp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi: “Trộm cắp tài sản”, “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đều đã được xóa án tích và hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

4.2. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội đã thực hiện nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

5.1. Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác là nguyên nhân phát sinh tội phạm. Bị cáo là người đã từng bị kết án về tội phạm ma túy và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không chịu cải tạo, tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục vi phạm do cố ý, thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

5.2. Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân không có nghề nghiệp, thu nhập, tài sản riêng; phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông theo bị cáo khai khoảng 60 tuổi, gặp ở khu vực Chợ lợn thuộc xã Bối Cầu, huyện Bình Lục là người đã bán ma túy cho bị cáo để cất giấu, do quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ phối hợp để xác minh làm rõ nhưng không xác định được người này, ngoài lời khai của bị cáo ra thì không còn có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh do đó chưa đủ cơ sở để xem xét, xử lý đối với người này là có căn cứ.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

7.1. Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát: 90H7-08.., quá trình điều tra đã xác định đó là tài sản hợp pháp của chị Lưu Thị H (vợ bị cáo), do chị H không biết việc bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô làm phương tiện phạm tội và có đề nghị xin được nhận lại xe để sử dụng nên trả lại chiếc xe môtô cho chị H.

7.2. Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật nhà nước quy định cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T (tên gọi khác Nguyễn Mạnh C) phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 30/12/2022.

2. Xử lý vật chứng:

2.1. Trả lại cho chị Lưu Thị H 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát: 90H7-08.., số máy: VTTJL1P50FMG-2001857, số khung: RRKDCC3UM8X001857.

2.2. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong, mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 07/KTHS, có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 01/03/2023.

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1921
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về