Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12/09/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2023/HSST ngày 13/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:28/2023/QĐXXST-HS ngày 30/8/2023 đối với các bị cáo:

1.Họ và tên: Lò Văn S; Tên gọi khác: Không.

Sinh năm 1992 tại tỉnh L.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Thái.

Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Lò Văn H (Sinh năm 1961) và con bà: Quàng Thị P (Sinh năm 1965).

Hiện bố, mẹ bị cáo đang sinh sống tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L.

Gia đình bị cáo có 04 anh,chị, em bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Vợ, con: Chưa có Tiền sự: Không Tiền án: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/04/2023 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh L.

(Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Đao Văn Ph; Tên gọi khác: Không.

Sinh năm 2003 tại tỉnh L.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Thái.

Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Đao Văn D (Sinh năm 1980) và con bà: Cà Thị Ch (Sinh năm 1985).

Hiện bố, mẹ bị cáo đang sinh sống tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L.

Gia đình bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa có .

Tiền sự: Không Tiền án: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/04/2023 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh L.

(Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông: Cà Văn Ch - Sinh năm 1996 Trú tại: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L. (Vắng mặt tại phiên tòa có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 08/4/2023, Lò Văn S đi bộ một mình từ nhà ở bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng ra thị trấn N. Khi đi đến tổ dân phố Noong Kiêng thuộc thị trấn N thì gặp Đao Văn Ph, sinh năm 2003 là người trú cùng bản. S rủ Ph đi lên bản Huổi Chát, xã Nậm Manh chơi, Ph đồng ý rồi điều khiển xe mô tô (không biển kiểm soát, do Ph mượn của Cà Văn Ch, sinh năm 1996, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, từ trước) chở S ngồi sau. Trên đường đi S rủ Ph vào bản Huổi Lính, xã Nậm Chà tìm mua Heroine để sử dụng, Ph đồng ý. Khi đi đến Nhà văn hóa bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, S bảo Ph xuống xe, còn S điều khiển xe mô tô vào trong bản tìm mua Heroine, đi được một đoạn thì gặp và nhờ một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) mua hộ Heroine với số tiền 300.000 đồng (là tiền của Lò Văn S). Nhận tiền người đàn ông đi đâu đó khoảng 15 phút thì quay ra và đưa cho S 01(một) gói được gói bằng mảnh nilon màu xanh, bên trong chứa 01 (một) gói nhỏ được gói bằng mảnh nilon màu hồng. Nhận Heroine, S bỏ vào trong túi quần bên phải rồi quay lại chỗ Ph đang chờ để về nhà, còn người đàn ông mua hộ Heroine đi đâu làm gì thì S không biết. Trên đường về S và Ph dừng xe rủ nhau đi vào bụi cây bên lề đường để sử dụng, S tách lấy một ít Heroine trong gói Heroine vừa mua được ra hai người sử dụng bằng hình thức hít. Số Heroine còn lại S tách thành 03 (ba) gói nhỏ (có sự chứng kiến của Đao Văn Ph), đều được gói bằng mảnh nilon màu hồng, sau đó gói chung lại 01 (một) gói bằng mảnh nilon màu xanh và cầm trên tay phải ngồi sau xe Ph. Hồi 17 giờ 10 phút cùng ngày, khi S, Ph đi đến khu vực thuộc bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện N, tỉnh L thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang thu giữ số Heroine trên (S tự giác giao nộp gói Herroine); 01 (một) xe mô tô mang nhãn hiệu Honda Ware alpha, màu sơn đen-trắng, không biển kiểm soát (xe đã qua sử dụng).

Tại bản kết luận giám định khối lượng của giám định viên theo vụ việc số 19, ngày 09 tháng 4 năm 2023 xác định số chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn S, Đao Văn Ph có khối lượng là 1,1 gam, gửi toàn bộ đi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L.

Tại bản Kết luận giám định số 431/KL-KTHS, ngày 11/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L. Số 1,1 gam chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn S, Đao Văn Ph gửi giám định là ma túy, loại: Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sựNghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ các danh mục chất ma túy và tiền chất (Mẫu vật gửi giám định không hoàn lại).

Tại bản Cáo trạng số: 20/CT-VKS ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố các bị cáo Lò Văn S và Đao Văn Ph về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…….

Tại phiên tòa hôm nay Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Lò Văn S và Đao Văn Ph theo nội dung bản cáo trạng và đưa ra các căn cứ, chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ vật chứng đã thu giữ chất bột khô màu trắng có tổng khối lượng 1,1 gam (một phẩy một gam) là heroine thu giữ của các bị cáo cùng các lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện VKS khẳng định các bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 5 Điều 249 BLHS; Điều 17; Điều 38; Điều 58 BLHS đối với các bị cáo;

miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt mỗi bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đề nghị xử lý vật chứng và đề nghị buộc các bị cáo phải nộp án phí.

Về phía các bị cáo, tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai và các bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay: Các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Cà Văn Ch vắng mặt tại phiên toà có lý do và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường phần trách nhiệm dân sự và có đề nghị được xin lại chiếc xe máy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện Nậm nhùn, Điều tra viên. Cơ quan Viện kiểm sát huyện Nậm nhùn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, các bị cáo thừa nhận việc truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai.

*Về lời khai của các bị cáo: Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo khai nhận rằng: Khi khai nhận trước Cơ quan điều tra, các bị cáo không hề bị bức cung, nhục hình; các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, các bị cáo được nghe và đọc lại và tự nguyện ký nhận, các bị cáo thừa nhận đã tàng trữ trái phép tổng khối lượng là 1,1 gam (một phẩy một gam) heroine để sử dụng cho bản thân các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra là tự nguyện, khách quan; biên bản, tài liệu điều tra được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

* Xét quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và ý kiến của các bị cáo HĐXX thấy rằng: Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên tòa đã đưa ra các căn cứ chứng minh về hành vi phạm tội của các bị cáo căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ kết quả mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu vật gửi đi giám định. Kết luận giám định số 431/KL-KTHS, ngày 11/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L. Số 1,1 gam chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn S, Đao Văn Ph gửi giám định là ma túy, loại: Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ các danh mục chất ma túy và tiền chất. Các lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bởi vì những quan điểm này phù hợp với những tài liệu chứng cứ đã được thu thập khách quan có trong hồ sơ vụ án cùng lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay đã cho thấy: Hồi 17 giờ 10 phút, ngày 08 tháng 4 năm 2023, tại bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện N. Lò Văn S, Đao Văn Ph tàng trữ trái phép Heroine có khối lượng 1,1 (một phẩy một) gam với mục đích sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang, thu giữ. Do đó Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo Lò Văn S, Đao Văn Ph phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy bản thân các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng khó khăn của huyện N và tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo. Bản thân các bị cáo học vấn thấp nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự,với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên vì vậy khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo cần xem xét hành vi phạm tội với tính chất của các bị cáo đã gây ra, gây bức xúc cho nhân dân địa phương, coi thường pháp luật. Với khối lượng ma túy 1,1 (một phẩy một) gam các bị cáo tàng trữ việc đề nghị của VKS xử phạt mỗi bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù, HĐXX xét thấy chưa phù hợp cần có một mức hình phạt thấp hơn mức đề nghị của VKS để tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định và cũng là bài học cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hành vi đồng phạm: Lò Văn S, Đao Văn Ph cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội đồng phạm với nhau về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Lò Văn S là người thực hành, Đao Văn Ph là người giúp sức nên cần áp dụng Điều 17 BLHS đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không

[7] Về việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng gồm:

- 1,1 gam Heroine gửi giám định không hoàn lại mẫu vật.

- Quá trình điều tra, xác định chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của ông Cà Văn Ch Vậy HĐXX quyết định Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Cà Văn Ch trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L (vì không liên quan đến hành vi phạm tội): 01 xe mô tô mang nhãn hiệu Hon da Wave alpha, màu sơn đen-trắng, có số khung RHMCHSXM6H 143397; số máy RPTOS152FMHOO 143397, dung tích 107 cm3. Xe không có biển kiểm soát, phần đèn chiếu hậu vỡ (xe đã qua sử dụng, quá trình thu giữ Cơ quan CSĐT không thu được đăng ký xe). Ngoài ra xe không có hộp xích, đồng hồ xe bị vỡ, xe không gương chiếu hậu, không có chìa khóa xe.

Hiện vật chứng trên đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh L.

[8] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ đều cho thấy các bị cáo làm ruộng, các bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình các bị cáo khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với các bị cáo.

[9] Về án phí: Xét các bị cáo không thuộc hộ nghèo, cận nghèo và để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này: Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông đi mua hộ Lò Văn S Heroine tại bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện N.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lò Văn S, Đao Văn Ph. Ngày 04/7/2023 Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là đúng quy định của pháp luật.

Đối với Cà Văn Ch là người cho Đao Văn Ph mượn xe mô tô, Ch không biết việc Ph sử dụng vào việc phạm tội, nên không đồng phạm với S, Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. “Vậy HĐXX không đặt vấn đề giải quyết các vấn đề nêu trên”.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố các bị cáo: Lò Văn S Đao Văn Ph phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2/Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 38; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 BLHS đối với các bị cáo.

Xử phạt bị cáo Lò Văn S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 09/04/2023.

Xử phạt bị cáo Đao Văn Ph 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 09/04/2023.

3/Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với các bị cáo.

4/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 47 BLHS; Điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Cà Văn Ch: 01 xe mô tô mang nhãn hiệu Hon da Wave alpha, màu sơn đen - trắng, có số khung RHMCHSXM6H 143397; số máy RPTOS152FMHOO 143397, dung tích 107 cm3. Xe không có biển kiểm soát.

5/ Về trách nhiệm dân sự: Không

6/Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS và Áp dụng điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về