Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Phương Đ (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/02/1996 tại huyện L, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn D và bà Trương Thị B; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo nguyên là đảng viên Đ1 (Đã bị xóa tên trong danh sách đảng viên theo Quyết định số 807-QĐ/HU, ngày 23/6/2023 của Ban T); nhân thân: Chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị tạm giữ ngày 16/3/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 25/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

Những người chứng kiến:

Anh Bùi Nhật S, sinh năm 2000; nơi cư trú: Xóm B, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, không lý do.

Anh Bùi Văn M, sinh năm 2000; nơi cư trú: Xóm B, xã Đ, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt, không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 16/3/2023, Bùi Phương Đ bắt xe buýt từ thành phố H về nhà mình ở huyện L, tỉnh Hòa Bình. Trên đường về nhà, Đ nảy sinh ý định tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân, nên Đ đã xuống xe buýt tại khu vực ngã ba thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Sau khi xuống xe buýt, Đông quan sát thấy có một người đàn ông chạy xe ôm đang ngồi trên xe một mình. Người đàn ông đó có đặc điểm khoảng 35 đến 40 tuổi, mặc quần áo màu đen, dáng người cao gầy, đội mũ bảo hiểm trùm kín đầu, đi xe mô tô Wave màu đỏ, không rõ biển kiểm soát. Đông lại gần bắt chuyện với người đàn ông trên và hỏi “Anh biết chỗ nào có ma túy không, lấy cho em một ít”. Người đàn ông hỏi Đ muốn lấy bao nhiêu. Đ trả lời muốn lấy 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng trắng và hồng (Tức là Heroine và Hồng phiến). Người đàn ông đồng ý và hẹn Đ đi vào đoạn đường mỏ đá thuộc khu M, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình để giao dịch. Sau khi thống nhất, người đàn ông điều khiển xe mô tô đi về hướng Hà Nội - Sơn La, còn Đ đi bộ theo Quốc lộ A, hướng T - L. Do không biết chính xác điểm hẹn, nên Đ vừa đi vừa hỏi đường. Khi đi đến khu vực cánh đồng thì Đ dừng lại và gọi điện thoại cho Bùi Nhật S là bạn cùng học lái xe ô tô với Đ, hiện đang làm nghề lái xe Taxi đến đón, để đưa Đ về L. Khi xe ô tô của S đi đón Đ, cùng đi với S còn có Bùi Văn M là bạn của S ngồi ở ghế phụ phía trước. Khi xe ô tô của S đến đón Đ, Đ lên xe và ngồi ở hàng ghế phía sau. Đ nói với S chở Đ đi vào đoạn đường mỏ đá thuộc khu M, thị trấn M để gặp người quen, sau đó mới đi về L. Khi xe đi vào đoạn đường đã hẹn, Đ thấy người lái xe ôm vừa nãy đang đỗ xe bên đường đợi mình. Đ bảo S dừng xe ô tô lại, sau đó Đ xuống xe và đi bộ đến chỗ người đàn ông đó. Người đàn ông chạy xe ôm đưa cho Đ một gói nilon màu trắng. Đ mở ra kiểm tra, thấy bên trong chứa ma túy Heroine và 01 (Một) viên H phiến, nên Đ đã trả cho người đàn ông số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng như thỏa thuận. Sau đó, Đ cất giấu gói ma túy vừa mua được vào trong bao thuốc lá của mình, rồi quay lại xe ô tô bảo S chở mình về nhà ở huyện L. Đến 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi xe ô tô của S chở Đ ra đến đoạn đường K, Quốc lộ A thuộc địa phận khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình thì gặp tổ công tác của Công an ra hiệu lệnh dừng xe ô tô để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Đ đã tự giác lấy gói ma túy trong bao thuốc lá của mình ra giao nộp cho tổ công tác. Đồng thời, Đ khai nhận đây là gói chứa chất ma túy Heroine và Hồng phiến của mình vừa mua được, nhằm mục đích sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Đối với Bùi Nhật S và Bùi Văn M là hai người có mặt trên xe ô tô, không biết việc Đ đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau đó, tổ công tác đã đưa Bùi Phương Đ cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 117/KL-KTHS, ngày 24/3/2023 của Phòng K Công an tỉnh H kết luận:

“- Chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 trong phong bì niêm phong một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ vụ: Bùi Phương Đ, sinh năm: 1996, nơi thường trú: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình có hành vi phạm tội về ma túy - Phát hiện, bắt quả tang tại K, Quốc lộ A thuộc địa phận khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình ngày 16/3/2023” gửi giám định có khối lượng 0,50g (Không phẩy năm mươi gam), là ma túy, loại Heroine.

- Viên nén hình trụ màu hồng ký hiệu M2 trong phong bì niêm phong một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ vụ: Bùi Phương Đ, sinh năm: 1996, nơi thường trú: Phố Đ, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình có hành vi phạm tội về ma túy - Phát hiện, bắt quả tang tại K, Quốc lộ A thuộc địa phận khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình ngày 16/3/2023” gửi giám định có khối lượng 0,10g (Không phẩy một gam), là ma túy, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 28/6/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Phương Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Phương Đ một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Đối với những người chứng kiến là anh Bùi Nhật S và anh Bùi Văn M vắng mặt tại phiên tòa. Lời khai của anh Bùi Nhật S và anh Bùi Văn M có trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các tình tiết mà anh S và anh M đã được chứng kiến việc cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Phương Đ ngày 16/3/2023; phù hợp với lời khai của bị cáo, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét công khai tại phiên toà.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Phương Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Bùi Phương Đ từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu của bị cáo Bùi Phương Đ toàn bộ khối lượng Heroine và Methamphetamine còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K Công an tỉnh H để tiêu hủy.

+ Trả lại cho bị cáo Bùi Phương Đ một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, đã qua sử dụng và một căn cước công dân mang tên Bùi Phương Đ.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo Bùi Phương Đ không có ý kiến tranh luận.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T thu thập hợp pháp gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Phương Đ ngày 16/3/2023; vật chứng thu được của bị cáo Bùi Phương Đ là một gói nilon màu trắng, bên trong có một gói nilon màu xanh chứa chất bột dạng cục màu trắng và một gói nilon màu trắng chứa một viên nén hình trụ màu hồng mà bị cáo khai là ma túy, loại Heroine và Hồng phiến; Kết luận giám định số 117/KL-KTHS, ngày 24/3/2023 của Phòng K Công an tỉnh H; các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Bùi Phương Đ trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Được chứng minh bằng vật chứng thu được, kết luận giám định chất ma túy cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 12 giờ 10 phút, ngày 16/3/2023, tổ công tác của Công an huyện T chủ trì phối hợp với Công an thị trấn M và Công an xã T, huyện T làm nhiệm vụ tuần tra lưu động trên tuyến quốc lộ A, tại Km 93 thuộc địa phận Khu T, thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Tổ công tác đã phát hiện và bắt quả tang bị cáo Bùi Phương Đ có hành vi tàng trữ trái phép hai chất ma túy là Heroine và Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,60g (Không phẩy sáu mươi gam). Trong đó, khối lượng Heroine là 0,50 gam, khối lượng Methamphetamine là 0,10 gam, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Bùi Phương Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hiểm họa của toàn thể nhân loại, là tệ nạn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức đấu tranh, cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, nhằm loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Nhưng do nghiện ma túy, nên bị cáo vẫn cố tình mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[4] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Đó là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy và không có tài sản gì có giá trị cao, nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được tên và địa chỉ của người này, nên không xem xét xử lý trong vụ án. Khi nào cơ quan điều tra làm rõ được sẽ xem xét, xử lý sau.

[8] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với một phong bì được Phòng K Công an tỉnh H niêm phong các chất ma túy là Heroine và Methamphetamine của bị cáo còn lại sau khi đã giám định. Xét đây là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

Đối với căn cước công dân mang tên Bùi Phương Đ và một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của bị cáo. Xét căn cước công dân và chiếc điện thoại nêu trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên được trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Phương Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Bùi Phương Đ 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 16/3/2023).

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ khối lượng Heroine và Methamphetamine của bị cáo Bùi Phương Đ còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K Công an tỉnh H. Trên phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Bùi Phương Đ, sinh năm 1996, có hành vi phạm tội về ma túy, xảy ra ngày 16/3/2023 tại thị trấn M, huyện T, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng K Công an tỉnh H và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Trả lại cho bị cáo Bùi Phương Đ một điện thoại di động cảm ứng, nhãn hiệu Samsung, đã qua sử dụng, có số IMEI 1: 359929/07/964007/1, số IMEI 2: 359930/07/964007/9 và một căn cước công dân số 017096003577 mang tên Bùi Phương Đ, do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH cấp ngày 11/8/2021.

(Các tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng số 26/BB-THA, ngày 06/7/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Phương Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về