TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 225/2022/HSST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 211/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Viết D, sinh năm 1991; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi sinh: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 11/7/258 đường V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; văn hóa: 9/12; con ông: Nguyễn Việt H, sinh năm 1961 và bà: Trần Thị D, sinh năm 1966; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17-6-2022 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; (Có mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Vũ Viết H (Vắng mặt).
2. Ông Cao Bá L (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16-6-2022, tổ công tác Công an phường H, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 37 B, phường H, thành phố N phát hiện Nguyễn Viết D đi xe máy biển kiểm soát 18B2-111.54 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra; phát hiện trong túi quần trước bên phải của D 01 gói nilong trong suốt, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (D khai là ma túy tổng hợp mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Viết D. Ngoài ra tạm giữ của Dũng 01 xe máy biển kiểm soát 18B2-111.54.
Bản kết luận giám định số 893/KL-KTHS ngày 22-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nilong trong suốt được niêm phong trong phong bì thư gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,181 gam.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Nguyễn Viết D khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 16-6-2022 Dũng đi xe máy từ nhà đến khu vực chợ H, phường H, thành phố N nhờ một người tên Quân (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua hộ 01 gói ma túy tổng hợp với giá 100.000 đồng, rồi đi xe máy tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.
Đối với đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Viết D, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để điều tra, xử lý sau.
Bản cáo trạng số 215/CT-VKSTPNĐ ngày 28-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Nguyễn Viết D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây được viết tắt là BLHS).
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Viết D khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên toà, luận tội và tranh luận: Giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết D từ 12 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy đã thu giữ. Trả lại bị cáo 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-111.54 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Bị cáo Nguyễn Viết D không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và hứa sẽ không nghe bạn bè rủ rê sử dụng ma tuý nữa nên kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Viết D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Viết D tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; Lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16-6-2022, tại khu vực trước cửa số nhà 37 đường B, phường H, thành phố N, Nguyễn Viết D đã tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Viết D đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ là 0,181 gam Methamphetamine, vì vậy tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS nên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là đúng pháp luật.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[3.1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Nguyễn Viết D đã thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[3.2] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, lần phạm tội này bị cáo đã tàng trữ 0,181 gam Methamphetamine nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo, nhưng cũng cần xem xét, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội lần đầu, khi bị bắt đã thành khẩn khai báo ăn lăn hối hận với hành vi của mình, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Viết D là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước độc quyền quản lý, cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-111.54 là tài sản của bị cáo, bị cáo mua để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, lao động trong cuộc sống, không phải là công cụ phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Viết D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết D 12 (Mười hai). tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17-6-2022.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 893/KL- KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định. Trả lại bị cáo 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-111.54 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án. (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố N).
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Viết D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Viết D có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 225/2022/HSST
Số hiệu: | 225/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về