Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 27/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2023, Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến (Điểm cầu trung tâm tại Phòng xét xử trực tuyến - Tòa án nhân dân thành phố H. Điểm cầu thành phần tại Phòng xét xử trực tuyến -Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố H) vụ án hình sự thụ lý số: 02/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2023 đối với:

Họ tên bị cáo : Phạm Quốc Đ - Sinh năm: 1996 HKTT và nơi ở: An Lãng, Văn Tự, Thường Tín, H Nghề nghiệp: không Văn hóa: 10/12 Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Họ và tên bố: Phạm Khắc Th - SN 1970 Họ và tên mẹ: Trần Thị T - SN: 1976 Gia đình có 02 anh em, bị can là con đầu. Vợ: Hồ Thị M - SN: 1997 (đã ly hôn) Có 01 con sinh năm: 2015 Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt quả tang ngày 01/11/2022.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại Tạm giam số I, Công an thành phố H, số giam: 5136B2/17; Có mặt tại Phòng xét xử trực tuyến - Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02h00’ ngày 01/11/2022, tại số 632 La Thành, phường Giảng Võ, B, H, tổ công tác đại đội 3-PK02E công an Thành phố H, tiến kiểm tra hành chính đối với 02 nam thanh niên điều khiển xe máy BKS: 35C1-xxxxx. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên phải của nam thanh niên ngồi sau là Phạm Quốc Đ, có 01 gói nilong kích thước 2x3cm, bên trong có tinh thể màu trắng và 01 gói nilon kích thước 2x3cm bên trong có 02 viên nén hình ngũ giác màu xanh. Phạm Quốc Đ khai là ma tuý tổng hợp mua về để sử dụng. Kiểm tra nam thanh niên điều khiển xe không phát hiện và thu giữ gì.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 túi ni lông kích thước 2x3cm, bên trong có tinh thể màu trắng dạng đá - 01 gói nilon kích thước 2x3cm bên trong có 02 viên nén hình ngũ giác màu xanh - 01 ĐTDĐ Iphone 11 XR màu xanh, Imel 356825117561720, số sim:

097964xxxx Bản Kết luận giám định số: 7600/KLGĐ-PC09 ngày 08.11.2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố H kết luận (BL: 65):

- 02 viên nén màu xanh nõn chuối, khối lượng: 1,076gam đều là ma túy loại MDMA.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông, khối lượng 0,646gam là ma tuý loại Ketamine.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Quốc Đ khai: Do có nhu cầu sử dụng ma tuý, nên khoảng 01h ngày 01.11.2022, Phạm Quốc Đ đi bộ đến khu vực ngõ 612 La Thành, phường Giảng Võ, B, H, mua ma tuý của một người đàn ông không quen biết gồm: 01 túi ni lông kích thước 2x3cm, bên trong có tinh thể màu trắng là ma tuý “ke”; 01 gói nilon kích thước 2x3cm bên trong có 02 viên nén hình ngũ giác màu xanh là ma tuý “kẹo”, hết 1.200.000đồng. Mua xong, Đ cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc và đặt xe máy công nghệ “Bee” để đi về khu vực Mễ Trì Hạ-Nam Từ Liêm- H để ngủ nhờ và sử dụng ma tuý. Anh Dương Văn Tuyên lái xe công nghệ chở Đ đến trước số 632 La Thành, phường Giảng Võ, B, H, thì bị tổ công tác đại đội 3-PK02E công an Thành phố H, tiến kiểm tra hành chính đã phát hiện, thu giữ số ma tuý trên và đưa về trụ sở công an phường Giảng Võ để giải quyết.

Lời khai của Phạm Quốc Đ phù hợp lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, sơ đồ hiện trường, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối tượng bán ma tuý cho Phạm Quốc Đ, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSBĐ ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố Phạm Quốc Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSBĐ ngày 03/01/2023, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1,khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 và Điều 51, Điều 38 điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc Đ từ 28 đến 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ Iphone 11 XR màu xanh, Imel 356825117561720, số sim: 097964xxxx.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Quốc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình và lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án bị cáo xin hội đồng xét xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận B, thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02h00’ ngày 01/11/2022, tại tại số 632 La Thành, phường Giảng Võ, B, H, Phạm Quốc Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,076gam đều là ma túy loại MDMA và 0,646gam là ma tuý loại Ketamine, mục đích để sử dụng, thì bị tổ công tác đại đội 3- PK02E công an Thành phố H, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của Phạm Quốc Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố Phạm Quốc Đ theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm, tạo nên sự bất ổn định của tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương. Tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng một mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38 của Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ; Bị cáo phạm tội lần đầu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét xử bị cáo đã khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử căn cứ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã phân tích trên để quyết định hình phạt tương xứng.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ Iphone 11 XR màu xanh, Imel 356825117561720, số sim: 097964xxxx; không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về các vấn đề khác: Đối tượng bán ma tuý cho Phạm Quốc Đ, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Đề nghị của Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về Điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như phần xử lý vật chứng phù hợp các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào Điểm i Khoản 1,Khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm quốc Đ 30 (Ba mươi) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/11/2022.

* Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xử lý vật chứng bao gồm:

Tịch thu tiêu hủy : 01 (Một) bao niêm phong bên trong chứa 0,646 gam Ketamine và 1,076 gam MDMA,đã qua giám định, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm quốc Đ.

Trả lại cho bị cáo 01( Một) ĐTDĐ Iphone 11 XR màu xanh đã qua sử dụng, có IMEl 356825117561720, có gắn số sim: 097964xxxx,không kiểm tra chất lượng bên trong.

Chi tiết vật chứng theo Biên bản bàn giao vật chứng số 62 ngày 10 /01/2023 giữa Công an quận B với Chi Cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố H.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1,4 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 27/02/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2023/HS-ST

Số hiệu:21/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về