Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 196/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 196/2022/HSST NGÀY 08/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Ngô Ngọc D, sinh năm 1975; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi sinh: Tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 169 đường Q, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi ở: Số 35/43/184 đường 19/5 phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; văn hóa: 2/12; con ông: Ngô Ngọc Th (Đã chết) và bà Trần Thị M (Đã chết); gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; vợ Giang Thị H (Đã chết), có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15-01-1994 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 04 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Ngày 16-5-2000 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 10 tháng 20 ngày về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 12-7-2004 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 25-10-2013 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06-6-2022 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; (Có mặt).

Ngưi làm chứng:

1. Anh Vũ Thế D (Vắng mặt).

2. Ông Phạm Thế H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 06-6-2022, tổ công tác Công an phường Ngô Quyền, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 4 đường H, phường N, thành phố N phát hiện Ngô Ngọc D điều khiển xe máy biển kiểm soát 18B2- 971.74 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trong hộc để đồ phía trước bên phải xe máy do D điều khiển 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (4 x 7)cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (D khai là Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Ngô Ngọc D. Ngoài ra còn tạm giữ của D 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-971.74, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng và số tiền 500.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 801/KL-KTHS ngày 09-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (4 x 7)cm trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý: Heroine. Khối lượng mẫu: 3,131 gam.

Ti Cơ quan điều tra, Ngô Ngọc D khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 06-6-2022 Dần điều khiển xe máy biển kiểm soát 18B2-972.74 đến khu vực gầm cầu Đ xã N, thành phố N đi vào trong ngõ (Không nhớ số ngõ) dừng xe trước cửa ngôi nhà (Không nhớ số nhà) nhìn thấy người đàn ông đứng trong cửa (D không biết tên, tuổi địa chỉ) mua 01 túi ma túy kích thước khoảng (4 x 7) cm với giá 2.000.000 đồng. D cầm túi ma túy vừa mua được bỏ vào hộc để xe máy rồi điều khiển xe đi tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đi với đối tượng bán ma túy cho Ngô Ngọc D, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để điều tra, xử lý sau.

Đi với 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-972.74 D mượn của anh Gi, Anh D, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 3/125 Bến Thóc, phường Ngô Quyền, thành phố N (là anh họ D), anh D không biết Dần mượn xe máy để đi mua ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại chiếc xe máy cho anh D.

Bản cáo trạng số 190/CT-VKSTPNĐ ngày 15-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Ngô Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây được viết tắt là BLHS).

Ti phiên tòa, bị cáo Ngô Ngọc D khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng đã nêu.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên toà, luận tội và tranh luận đã kết luận: Giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo Ngô Ngọc D từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù. Căn cứ khoản 5 Điều 249 áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5 triệu đến 7 triệu đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy đã thu giữ. Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ và số tiền 500.000 đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo Ngô Ngọc D không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Ngô Ngọc D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Ngô Ngọc D tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; Lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 06-6- 2022, tại khu vực trước cửa số nhà 4 đường H, phường N, thành phố N, Ngô Ngọc D đã có hành tàng trữ trái phép ma tuý mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo Ngô Ngọc D đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ là 3,131 gam Heroine, vì vậy tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS nên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3.1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Ngô Ngọc D đã thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[3.2] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu (Từ năm 1994 đến năm 2013 bị cáo đã 04 lần bị kết án). Lần phạm tội này bị cáo đã tàng trữ 3,131 gam Heroine nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nghiêm khắc, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Ngô Ngọc D là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước độc quyền quản lý, cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ và số tiền 500.000 đồng là tài sản của bị cáo không phải là công cụ phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo Ngô Ngọc D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Ngô Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS;

Xử phạt bị cáo Ngô Ngọc D 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06-6-

2. Về hình phạt bổ sung:

Kng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 801/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ và số tiền 500.000 đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố N).

4. Án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Ngô Ngọc D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Ngô Ngọc D có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 196/2022/HSST

Số hiệu:196/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về