Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 192/2022/HSST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 190/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 190/2022/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lưu Hồng Th; sinh năm 1976 tại tỉnh Hà Nam; đăng ký hộ khẩu thường trú: số 79H/75 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi ở: số 04/160 đường T, phường L, thành phố N tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Hồng S và bà Trần Thị H; đã ly hôn vợ, có 01 con; tiền án: không; tiền sự: ngày 26-4-2022 Công an phường Tr thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 13-5-2022, chuyển tạm giam ngày 22-5-2022; có mặt.

2. Họ và tên: Trần Đức Th1; sinh năm 1978 tại tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 21 phường Q, quận C, thành phố Hà Nội; nơi ở: số 04/160 đường T, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đình Nh và bà Trần Thị Thu H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 13-5-2022, chuyển tạm giam ngày 22-5-2022; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 45 phút ngày 13-5-2022, tổ công tác Công an phường Bà Triệu thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ 75 đường Tr phường L thành phố N phát hiện Trần Đức Th1 điều khiển xe máy biển kiểm soát 29P1- 789.11 chở Lưu Hồng Th có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra; Th đã tự giác giao nộp từ tay phải cho tổ công tác 02 gói nhỏ ni lông màu đen, bên trong đều là lớp giấy bạc màu trắng, chứa chất bột dạng cục màu trắng (Th và Th1 khai là 02 gói Heroine mua về để cùng sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1. Ngoài ra còn và tạm giữ của Th1 chiếc xe máy biển kiểm soát 29P1-789.11 đã cũ.

Bản Kết luận giám định số 675/KL-KTHS ngày 19-5-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu trắng, bên ngoài đều được bọc ni lông màu đen trong phong bì thư được niêm phong gửi giám định đều là ma túy; loại ma túy: Heroine; tổng khối lượng mẫu: 0,166 (không phảy một trăm sáu mươi sáu) gam.

Ti Cơ quan điều tra, Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1 khai: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 13-5-2022, Th và Th1 rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng. Th1 lấy xe máy biển kiểm soát 29P1-78911 chở Th đến đầu ngõ 75 đường Trần Thái Tông phường Lộc Vượng thành phố N, Th bảo Th1 dừng xe, Th đi bộ đến một ngôi nhà (không nhớ số nhà), đưa 200.000 đồng qua khe cửa thì có 01 người nhận tiền (không rõ là ai) và đưa 02 gói Heroine cho Th. Th cầm gói ma túy ở tay phải ngồi sau xe máy Th1 chở đi tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị phát hiện và bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 194/CT-VKSTPNĐ ngày 16-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố các bị cáo Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti phiên toà, các bị cáo Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1 khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Lưu Hồng Th từ 24 tháng đến 27 tháng tù, xử phạt bị cáo Trần Đức Th1 từ 21 tháng đến 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1 không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ lời khai của các bị cáo Lưu Hồng Th, Trần Đức Th1, lời khai của người làm chứng, Kết luận giám định số 675/KTHS ngày 19-5-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 13-5-2022, tại khu vực ngõ 75 đường Trần Thái Tông phường Lộc Vượng thành phố N, Lưu Hồng Th và Trần Đức Th1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,166 gam Heroine mc đích để sử dụng. Các bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, lỗi của các bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.

[3] Xét vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng thống nhất đi mua ma túy để sử dụng, do đó xếp vai trò của các bị cáo ngang nhau. Bị cáo Lưu Hồng Th có nhân thân xấu, đã 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 29P1-78911, là tài sản của bị cáo Trần Đức Th1, không phải công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho các bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo Lưu Hồng Th, Trần Đức Th1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lưu Hồng Th, Trần Đức Th1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lưu Hồng Th 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 13-5-2022.

Xử phạt bị cáo Trần Đức Th1 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 13-5-2022.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 675/GĐKTHS; trả lại bị cáo Trần Đức Th1 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 29P1-78911 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Án phí: Các bị cáo Lưu Hồng Th, Trần Đức Th1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Lưu Hồng Th, Trần Đức Th1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HSST

Số hiệu:192/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về