Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 190/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 190/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 165/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: HUỲNH TRỌNG A; Tên gọi khác: Chuột; Giới tính: nam. Sinh năm 1977, tại tỉnh B Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 6, phường B, thành phố P, B.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Huỳnh C; Con bà Trương Thị D;

Anh chị em ruột: có 06 người, bị cáo là con thứ năm trong gia đình;

Vợ: Đỗ Thị Thu E- sinh năm: 1977, có 01 con sinh năm: 2009.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

Ngày 03/8/2011 bị TAND huyện H, tỉnh B xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 82/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/4/2012, đã được xóa án tích.

Ngày 24/12/2010, Công an thị trấn Phú Long huyện H, tỉnh B xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Ngày 29/8/2018, UBND phường B, thành phố P ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn theo Nghị định 111/2013/NĐ-CP thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 28/9/2018 đến ngày 28/12/2018 về việc: “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: ngày 22/01/2022, Huỳnh Trọng A đi đến khu vực chơi bắn cá tại đường Hùng Vương thuộc phường Phú Thủy, thành phố P gặp một thanh niên (không rõ nhân thân) hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá, thanh niên này nhận 200.000 đồng từ A, rồi đưa cho A 01 gói nylon không màu (túi zip có khóa kéo một đầu), bên trong có ma túy đá. Mua được ma túy, A cất vào ví tiền của A, rồi đi về lại nhà của A tại số 21, đường Nguyễn Văn Cừ, ở khu phố 6, phường B, thành phố P. Đến khoảng 09 giờ 25 phút ngày 24/01/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường B tiến hành kiểm tra hành chính nhà của A, A sợ bỏ chạy để lại ví tiền trong phòng ngủ của A, bên trong ví tiền có cất dấu gói nylon chứa ma túy đá. Lực lượng Công an phát hiện lập biên bản thu giữ trong ví tiền của A 01 gói nylon không màu, có khóa kéo một đầu, kích thước (4x7)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, có sự chứng kiến của Huỳnh Trọng Hiệp (anh của Huỳnh Trọng A). Đến 11 giờ 05 phút ngày 25/01/2022, Huỳnh Trọng A đến Công an phường B để làm việc, tại đây A thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vật chứng của vụ án: 01 gói nylon không màu, có khóa kéo một đầu, kích thước (4x7)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M khi giám định).

Tại Bản kết luận giám định số 251/KL-PC09 ngày 15/3/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh B kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,3203 gam, là Methamphetamine.

Xử lý vật chứng: Gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo viền đỏ cùng 0,2823 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 251. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P bảo quản, chờ xử lý.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 172/CT/VKSPT-HS ngày 19/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: bị cáo Huỳnh Trọng A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Trọng A từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy: Gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo viền đỏ cùng 0,2823 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 251.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau;

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tổ tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về căn cứ buộc tội bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do Huỳnh Trọng A thực hiện, khoảng 09 giờ 25 phút ngày 24/01/2022, tại số nhà 21, đường Nguyễn Văn Cừ, thuộc khu phố 6, phường B, thành phố P, Huỳnh Trọng A có hành vi cất giữ trái phép 0,3203 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện, thu giữ.

Vì vậy Cáo trạng số 172/CT/VKSPT - HS ngày 19/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Huỳnh Trọng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Huỳnh Trọng A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được Methamphetamine là loại chất gây nghiện nằm trong danh mục Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo là con nghiện, khi đến cơn bị cáo có nhu cầu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại. Bị cáo đã tàng trữ một số lượng ma túy là 0,3203 gam Methamphetamine và bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo là cố ý, đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng nhân thân xấu, ngày 03/8/2011 bị TAND huyện H, tỉnh B xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 82/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/4/2012, đã được xóa án tích. Ngày 24/12/2010, Công an thị trấn Phú Long huyện H, tỉnh B xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 29/8/2018, UBND phường B, thành phố P ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn theo Nghị định 111/2013/NĐ-CP thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 28/9/2018 đến ngày 28/12/2018 về việc: “Sử dụng trái phép chất ma túy” A đã chấp hành xong.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trên cơ sở cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, sống tuân theo pháp luật, các quy tắc của cuộc sống, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[5]. Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

-Tịch thu tiêu hủy đối với các mẫu ma túy còn lại sau giám định: Gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo viền đỏ cùng 0,2823 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 251, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 [1].Tuyên bố: bị cáo Huỳnh Trọng A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Huỳnh Trọng A 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

[2]. Biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Xử lý vật chứng: Gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo viền đỏ cùng 0,2823 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 251, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 15, ngày: 25/10/2022 giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P).

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Trọng A phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (08/11/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 190/2022/HS-ST

Số hiệu:190/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về