Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 182/2022/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 182/2022/HSPT NGÀY 15/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 168/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2022/HS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo bị kháng nghị:

Họ và tên: Trần Thị Thanh T, sinh năm 1992 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú:

Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa:

09/12; con ông Trần Thanh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1958; bị cáo có chồng Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 (không đăng ký kết hôn), có 03 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2022 cho đến nay - có mặt tại phiên tòa.

Nhân thân: Ngày 18/9/2013, bị Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Bình Phước ra Quyết định số 2370/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn là 24 tháng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trịnh Gia Qu– Luật sư Công ty luật TNHH MTV Tín V, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 111 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Xa M Mlô, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn E, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Anh Y K Ktla, sinh năm 2002; địa chỉ: Buôn S, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

3. Anh Y S Niê, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn E, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

5. Anh Nguyễn Anh T1, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người làm chứng: Ông Đoàn Quý Đ, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ chiều ngày 08/3/2022, Trần Thị Thanh T bắt xe buýt đi ra đường Nguyễn Chí T (gần bệnh viện huyện C) thị trấn Q, huyện C gặp một người tên H (không rõ nhân thân lai lịch) để mua ma túy. T đưa cho H 600.000 đồng, H đã bán cho T 01 gói ni lông có kích thước (01x03)cm và 01 gói ni lông có kích thước (01x2,5)cm, bên trong 02 gói ni lông này có chứa chất rắn dạng tinh thể trong suốt là ma túy đá. Sau khi mua được ma túy thì T mang về cất giấu tại nhà của T (T ở nhà của anh Nguyễn Anh T1, sinh năm 1979, trú tại xã E, huyện K) tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk với mục đích khi nào cần sẽ mang ra để sử dụng. Đến chiều ngày 09/3/2022, T đang ở nhà thì có anh Xa M Mlô, Y S Niê, H (là người bán ma túy cho T trước đó) và một người đi cùng với H (không xác định được nhân thân lai lịch) đến nhà T chơi. Tại đây, H lấy ra một ít ma túy đá và bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của H đã chuẩn bị trước, cùng với Xa M Mlô, Y S Niê, Y K Ktla, Trần Thị Thanh T, H và 01 người đi cùng với H sử dụng. Sau khi sử dụng xong ma túy đá thì H và bạn của H đi về, Xa M Mlô, Y S Niê, Y K Ktla đang ở lại nhà T. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/3/2022 lực lượng Công an vào kiểm tra thì phát hiện T đang cầm trên tay phải 01 gói ni lông có kích thước (01x03)cm và một gói có kích thước (01x2,5)cm, bên trong 02 gói ni lông này có chứa chất rắn dạng tinh thể trong suốt là ma túy đá mà T mua về nhưng chưa kịp sử dụng. Sau đó, lực lượng Công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với T, tạm giữ niêm phong tang vật theo đúng quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 264/GĐMT-PC09 ngày 17/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể trong suốt bên trong 01 gói ni lông có kích thước (01x03)cm và 01 gói ni lông có kích thước (01x2,5)cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,2301 gam loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2022/HS-ST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh T 01 (một) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/3/2022.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 17/6/2022, Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk kháng nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk. Chuyển hồ sơ cho VKSND huyện Cư M’Gar để điều tra truy tố thêm về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Thị Thanh T.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa: Do bản án sơ thẩm bỏ lọt tội phạm. Nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự - Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk – Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk. Chuyển hồ sơ cho VKSND huyện Cư M’Gar để điều tra truy tố thêm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Thị Thanh T.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Thanh T cho rằng: Bị cáo T không chỉ huy, phân công, điều hành; không cung cấp ma túy, công cụ sử dụng ma túy cho các đối tượng khác. Hành vi của bị cáo đơn giản chỉ là những người nghiện ma túy rủ nhau cùng sử dụng ma túy, không đủ yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk – Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/3/2022, tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, Trần Thị Thanh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2301 gam ma túy loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Thị Thu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho rằng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999:

“6. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197) 6.1. “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:

b) Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy.

Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác thì bị coi là đồng phạm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy; chuẩn bị chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ, sản xuất…) nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác); chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; tìm người sử dụng chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ.

6.2. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cần phân biệt:

a) Người nghiện ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội sử dụng trái phép chất ma túy.” Và mục 1 phần I Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của TAND tối cao:

“… Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy. Trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng có đồng phạm nhưng đồng phạm ở đây được hiểu là thực hiện theo sự chỉ huy, phân công điều hành (không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không bắt buộc phải có sự phân công, chỉ đạo, điều hành chặt chẽ trong các đồng phạm).

Do đó, hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Người có hành vi này bị xử lý theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự.” Thì hành vi của bị cáo Trần Thị Thanh T ngoài phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm (sử dụng địa điểm đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác, rủ người khác sử dụng trái phép chất ma túy).

HĐXX xét thấy, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của đối tượng tên H và người thanh niên đi cùng H đã được Tòa án cấp sơ thẩm tách ra để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý bằng một vụ án khác. Mặt khác, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng chưa được cơ quan tiến hành tố tụng C làm rõ nên không cần thiết phải hủy án sơ thẩm để truy tố, xét xử bị cáo T đồng phạm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp.

Tuy nhiên, qua kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk cần kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng huyện C, tỉnh Đắk Lắk tiến hành điều tra làm rõ hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” của đối tượng tên H và các đồng phạm.

Từ những phân tích và nhận định trên, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk về việc Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk, chuyển hồ sơ cho VKSND huyện Cư M’Gar để điều tra truy tố thêm về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Trần Thị Thanh T.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HSST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh T 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/3/2022.

[3] Kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng huyện C, tỉnh Đắk Lắk tiến hành điều tra làm rõ hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” của đối tượng tên H và các đồng phạm để xử lý theo quy định của pháp luật.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 182/2022/HSPT

Số hiệu:182/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về