Bản án tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 115/2022/HS-PT NGÀY 09/06/2022 TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 138/2021/TLPT-HS ngày 21 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Phương T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Phương T, sinh ngày 12/4/1988; Nơi cư trú: Ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang; giới tính: Nam; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Huỳnh Thị K; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không có; tiền sự: 02 lần: Ngày 10/9/2019 bị Công an huyện G ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 5.500.000 đồng về hành vi "xâm hại sức khỏe người khác" và "Sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép" (bị cáo chưa nộp phạt); Ngày 13/01/2020 bị Ủy ban nhân dân huyện G xử phạt vi phạm hành chính số tiền 23.000.000 đồng về hành vi "Xâm hại sức khỏe người khác" và "Tàng trữ vũ khí thô sơ mà không có giấy phép" (bị cáo chưa nộp phạt).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/4/2021 (thay đổi biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú" từ ngày 30/9/2021 đến ngày 07/10/2021) cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Văn L của Chi nhánh Công ty Luật TNHH một thành viên X tại thành phố Tân An thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Long An. (có mặt)

Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 22/3/2021, Nguyễn Đức Th (tên thường gọi là N), sinh năm 1986, cư trú ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang cùng bạn của Th tên là B (không rõ tên, địa chỉ) có đến phòng trọ số 25 của T. Khi Th đến, T lấy dụng cụ sử dụng ma túy của mình ra để cùng Th, B sử dụng ma túy. Đến khoảng 23 giờ thì có Phạm Hoài Đ (B), sinh năm 1996, cư trú số xxx, khu phố 6S, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang và M (không rõ họ tên, địa chỉ) đến cùng sử dụng ma túy. Đến khoảng 00 giờ ngày 23/3/2021 thì Th, Đ, B và M ra về, M cầm theo bộ dụng cụ còn chứa một ít ma túy bên trên đi nơi khác để sử dụng, còn T dọn dẹp thấy còn lại 01 bịch ma túy nên đã lấy để vào 01 cái hộp nhựa màu đen rồi cất vào túi áo khoát của T đang treo trong phòng trọ. Đến 07 giờ 52 phút ngày 23/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang phát hiện, thu giữ.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 hộp nhựa màu đen có kích thước (19x8,5 x 03)cm, bên trong có 06 đoạn kim loại, dài nhất khoảng 03cm, ngắn nhất 0,8cm; một đoạn ống thủy tinh dài 13,5cm một đầu ống bị cong, ống thủy tinh tròn đường kính 0,5cm (thu trong túi áo khoát dài tay màu đen của Nguyễn Phương T đang treo trong phòng).

- 01 bịch nilon kích thước (07 x 4,5) cm chứa tinh thể màu trắng bên trong, đã được niêm phong, ký hiệu A1 (thu giữ trong hộp nhựa màu đen nêu trên).

- 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng, đã được niêm phong, kí hiệu A2 ( thu trong phòng trọ Nguyễn Phương T).

- 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu xanh lá canh, đã được niêm phong, kí hiệu A3 (thu trong phòng trọ của Nguyễn Phương T).

Kết luận giám định số 56/KLGĐ-PC09 ngày 31/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang, kết luận:

- Gói 1 (ký hiệu A1): Các mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1565 gam, loại Methamphetamine.

- Gói 2 (ký hiệu A2): Các mẫu chất bột màu trắng gửi giám định không tìm thấy thành phần ma túy, có khối lượng 1.097 gam.

- Gói 3 (ký hiệu A3): Các mẫu chất bột màu trắng gửi giám định không tìm thấy thành phần ma túy, có khối lượng 1.155 gam".

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phương T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/4/2021, cộng thêm thời gian thay đổi biện pháp ngăn chặn từ ngày 30/9/2021 đến ngày 07/10/2021.

* Ngoài ra bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

* Ngày 12 tháng 11 năm 2021, bị cáo Nguyễn Phương T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Phương T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện G đã nêu. Bị cáo rất ăn năn hối hận đối với tội lỗi của mình. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang trong phần tranh luận phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, mức án Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phương T giữ nguyên bản án sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ mới là bị cáo là lao động chính; có cậu ruột là người có công cách mạng, bị cáo đã nộp phạt 35.000.000 đồng cho hành vi vi phạm hình chính. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra đề nghị xem lại thời gian tạm giữ làm việc của bị cáo từ ngày 23/3/2021 đến ngày 06/4/2021 để trừ vào thời gian tạm giam cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Phương T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã nêu, lời nhận tội của bị cáo đã phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 23/3/2021, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đầy đủ cơ sở xác định: Lúc 07 giờ 52 phút ngày 23/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang kiểm tra phòng trọ số 25 Nhà trọ T, địa chỉ Số xxx, tổ B, ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang của T thuê trọ đã phát hiện bị cáo đang tàng trữ ma túy, có khối lượng 0,1565 gam, loại Methamphetamine.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết luận bị cáo Nguyễn Phương T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2]. Bị cáo Nguyễn Phương T là người đã thành niên có đầy đủ sức khoẻ và khả năng để nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm sẽ gây hậu quả tác hại rất lớn cho xã hội, nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý đi mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi và hậu quả mà mình đã gây ra.

[3]. Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phương T xin giảm nhẹ hình phạt Hội đồng xét xử nhận thấy: hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, hành vi này không những xâm phạm trực tiếp đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn gây tác hại to lớn đối với con người và cộng đồng, gây ra nhiều tệ nạn trong xã hội và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác gây mất trật tự trị an xã hội, là mối quan tâm lo lắng của mỗi người, mỗi gia đình trong xã hội. Do đó cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 02 năm 06 tháng tù là thỏa đáng, mức án trên không nặng đã tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cũng như để giáo dục, răn đe và phòng chống tội phạm. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào khác, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo T và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm là phù hợp. Tuy nhiên cách tính thời gian chấp hành hình phạt tù cấp sơ thẩm tuyên là chưa đúng, dễ gây hiểu nhầm khi thi hành án nên cần điều chỉnh lại cho phù hợp.

[4]. Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Xét Luật sư bào chữa cho rằng bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới bị cáo là lao động chính; có cậu ruột là người có công cách mạng, bị cáo đã nộp phạt 35.000.000 đồng cho hành vi vi phạm hình chính. Những tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ mới nhưng không đủ làm thay đổi mức hình phạt cho bị cáo. Đối với ý kiến đề nghị xem lại thời gian giam giữ làm việc của bị cáo từ ngày 23/3/2021 đến ngày 06/4/2021 để trừ vào thời gian tạm giam cho bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng tại công văn số: 424/CSHS ngày 10/5/2022 của Phòng Cảnh Sát Hình Sự công an Tỉnh Tiền Giang thì xác định từ ngày 23/3/2021 đến ngày 06/4/2021 không có bắt, giữ, giam và câu lưu Nguyễn Phương T nên không có căn cứ chấp nhận đề nghị này của Luật sư.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[7]. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phương T.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 35/2021/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phương T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/10/2021, được trừ thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2021 đến ngày 30/9/2021.

2/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phương T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-PT

Số hiệu:115/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về