Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 31 tháng 5 năm 2022; tại Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An và điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 104/2022/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2022. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Dương Xuân H, tên gọi khác: Dương Quang H; Sinh ngày: 30 tháng 3 năm 1975 tại huyện H, tỉnh NA; Nơi cư trú: Khối T, phường V, thành phố V, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn L (đã chết) và bà: Nguyễn Thị X, Sinh năm: 1936; Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án:

- Bản án số 430/2002/HSST ngày 21/12/2002 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 192/2003/HSST ngày 27/3/2003 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Chấp hành xong hình phạt tù tháng 7 năm 2005.

- Bản án số 148/2007/HSPT ngày 21/12/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/12/2014.

- Bản án số 282/2015/HSST ngày 13/8/2015 của Toà án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2020.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2022 đến nay, có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Quốc T; Sinh ngày: 05 tháng 8 năm 1986 tại huyện H, tỉnh NA; Nơi ĐKHKTT: Khối 23, phường H, thành phố V, tỉnh NA; Chỗ ở hiện nay: Xóm Y, xã X, huyện H, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thái A; sinh năm: 1955 và bà: Phan Thị N, Sinh năm: 1957; Có vợ: Nguyễn Thị M (đã ly hôn) và có 01 con: sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 03/01/2013 bị Ủy ban nhân dân thành phố Vinh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động – xã hội thành phố Vinh, chấp hành xong ngày 16/8/2015; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2022 đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Thường D; Sinh năm: 1966; Trú tại: khối T, phường VT, thành phố V, tỉnh NA; Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Anh Nguyễn Thanh B; Sinh năm: 1970; Địa chỉ: Khối Y, phường VT, thành phố V, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 05/3/2022, Nguyễn Quốc T đến nhà cậu là Dương Xuân H ở khối T, phường VT, thành phố V, NA nhờ chở T về nhà thì H đồng ý. Trên đường đi, T hỏi H “Lâu giờ cậu có chơi nhởi gì không?” (ý là chơi ma túy không?) thì H trả lời “Thi thoảng”, T lại hỏi tiếp “Bây giờ có kiếm được tý cậu cháu chơi không?” thì H nói T đứng chờ, H lại đây xem thử. T đưa cho H 200.000 đồng để mua ma túy. H cầm tiền đi xe máy đến đoạn bến xe cũ thuộc phường L, thành phố V gặp một người đàn ông tên H1 (H không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua một gói ma túy với giá 200.000 đồng. H1 đồng ý và hẹn H lại khu vực chợ V giao dịch thì H1 đưa cho H 01 (một) gói ma túy bên ngoài bọc bằng giấy kẻ ngang màu trắng. Sau khi mua được ma túy, H quay về đón T rồi cả hai đi mua hai bơm kim tiêm và hai lọ nước cất. Đến 08 giờ 30 phút cùng ngày, khi T và H đang ở khu vực bãi rác gần cầu T thuộc khối Y, phường VT, thành phố V để tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phường VT, thành phố V kiểm tra hành chính. Do hoảng sợ H đã dùng tay phải thả gói ma túy xuống đất nhưng bị lực lượng Công an thu giữ một gói bên ngoài bọc bằng giấy kẻ ngang màu trắng, bên trong chứa chất cục bột màu trắng, người cùng tang vật được dẫn giải về trụ sở Công an phường VT, thành phố V lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 05/3/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh và Kết luận giám định số 334/KL-KTHS (Đ2-MT) ngày 10/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất cục bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Quốc T và Dương Xuân H gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Chất cục bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Quốc T và Dương Xuân H có khối lượng là 0,120g (không phẩy một trăm hai mươi gam)”.

Vật chứng vụ án: 01 phong bì thư bưu điện được niêm phong, bên trong có chứa số ma túy còn lại sau khi giám định là 0,05 gam Heroine; 01 phong bì thư bưu điện được niêm phong, bên trong có 02 bơm kim tiêm và 02 lọ nước cất. Còn 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 37K1-77X đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh trả lại cho ông Dương Thường D.

Tại Bản cáo trạng số 123/CT-VKS-TPV ngày 11/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố bị cáo Dương Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như tại Bản cáo trạng số 123/CT-VKS-TPV ngày 11/5/2022 và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Xuân H từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt bổ sung: miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng là: Áp dụng Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư bưu điện được niêm phong, bên trong có chứa số ma túy còn lại sau khi giám định là 0,05 gam Heroine;

01 phong bì thư bưu điện được niêm phong, bên trong có 02 bơm kim tiêm và 02 lọ nước cất.

Và tại phiên tòa, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Dương Thường D (BL 134 – 135), người làm chứng anh Nguyễn Thanh B (BL 129 – 133); Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 05/3/2022, tại khu vực bãi rác gần cầu T thuộc khối Y, phường VT, thành phố V, tỉnh NA, hành vi cất giấu trái phép 0,120 gam ma túy (Heroine) để sử dụng của Nguyễn Quốc T và Dương Xuân H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Trong đó, bị cáo H phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích của lần tái phạm trước thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát truy tố theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, còn bị cáo T bị truy tố theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng mức.

[2.2]. Đây là vụ án thuộc loại rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện. Mặc dù các bị cáo cùng nhau tàng trữ ma túy thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn chứ không phải là phạm tội có tổ chức nhưng hành vi của các bị cáo đã gây dư luận xấu trong nhân dân. Tại khu vực tập trung đông người, các bị cáo đã liều lĩnh thực hiện hành vi phạm tội để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.

[2.3]. Xét vai trò, nhân thân của các bị cáo trong vụ án Hội đồng thấy rằng:

Bị cáo Dương Xuân H là đối tượng có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xử phạt nhiều lần cũng về tội phạm ma túy nhưng không chịu lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà vẫn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức pháp luật kém, thiếu ý chí tu dưỡng, rèn luyện để sửa chữa sai lầm nên cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn nên cần áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ phần nào hình phạt đối với bị cáo. Còn bị cáo Nguyễn Quốc T cũng có nhân thân đã bị áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc nên hiểu rõ tác hại của ma túy, biết rõ ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm bị nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển.. trái phép nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nên cũng cần phải xét xử nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; trong gia đình bị cáo có ông bà nội và bố đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến và trợ cấp đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học nên cần áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng đủ để giáo dục, cải tạo và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Đáng lẽ đối với các bị cáo cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền mới đủ nghiêm nhưng xét thấy các bị cáo hiện nay đều không có công ăn việc làm ổn định, lại là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên miễn cho các bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của Dương Xuân H thì có người đàn ông tên H1 đã bán ma túy cho H nhưng do H không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy, khi nào xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.

[2.5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ tại Dương Xuân H và Nguyễn Quốc T, sau khi lấy đi giám định còn lại là 0,05g Heroine là đối tượng phạm tội cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Còn 02 bơm kim tiêm và 02 lọ nước cất là những vật không có giá trị, không sử dụng được nữa nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Riêng đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 37K1-77X là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Dương Thường D cho H mượn làm phương tiện đi lại, việc H sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi phạm tội anh D không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh D là phù hợp nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[3]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Dương Xuân H và Nguyễn Quốc T đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Dương Xuân H 5 (Năm) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 05 tháng 3 năm 2022).

3. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc T 12 (Mười hai) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 05 tháng 3 năm 2022).

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong, trong có chứa 0,05 gam Heroine thu giữ tại Dương Xuân H và Nguyễn Quốc T (một mặt của phong bì có ghi “Vật chứng vụ Dương Xuân H và Nguyễn Quốc T”); Một phong bì thư niêm phong, trong có chứa 02 (hai) bơm kim tiêm và 02 (hai) lọ nước cất.

(Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK2022/134 ngày 23/5/2022).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Dương Xuân H và Nguyễn Quốc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về