Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 116/2023/HS-PT NGÀY 12/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 122/2023/TLPT-HS ngày 08/5/2023 đối với bị cáo Lê Minh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Minh S, sinh năm 1987, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn D, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang P, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; có vợ Trương Thị Tuyết K (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2008; tiền án: 01; tiền sự: 01.

Tiền án: Tại Bản án sơ thẩm số 119/2014/HS-ST ngày 20/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo và Bản án phúc thẩm số 32/2015/HS-PT ngày 28/01/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 23/5/2015 chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành nghĩa vụ án phí và tiền sung ngân sách nhà nước.

Tiền sự: Tại Quyết định số 02/2020/QĐ-TA ngày 22/01/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, ngày 27/12/2021 chấp hành xong.

Nhân thân:

+ Tại Bản án số 175/2005/HSST ngày 29/8/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, ngày 30/8/2015 chấp hành xong hình phạt tù.

+ Tại Bản án số 37/2016/HSST ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 11/5/2017 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2022 đến nay, hiện đang tạm giam – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/11/2022, Lê Minh S điều khiển xe mô tô biển số 47M1-xxxx đi từ nhà ở huyện E đến thành phố B để mua ma túy về sử dụng. Khi S đi đến khu vực nhà máy bia ở thành phố B thì gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch), S hỏi người đàn ông này là “có biết ở đâu bán ma túy không” thì người đàn ông này trả lời: “mua bao nhiêu, loại gì”, S trả lời: “mua 4.000.000 đồng, ma túy đá”. Sau đó S đưa số tiền 4.000.000 đồng cho người đàn ông này, sau khi nhận được tiền từ S người đàn ông này chỉ chỗ cất giấu gói ma túy đá trong một gói thuốc lá để bên hông tường của nhà máy bia gần vị trí mà S đang đứng, S đi lại lấy gói thuốc lá bên trong có chứa ma túy theo như chỉ dẫn của người đàn ông. Sau khi mua được ma túy S điều khiển xe mô tô đi về nhà ở huyện E. Khi về đến nhà S lấy một ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại S bỏ vào trong túi áo khoác dài tay, màu đen và treo trong phòng ngủ của S.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/11/2022, S mặc áo khoác có để gói ma túy phía trong và điều khiển xe mô tô biển số 47M1-xxxx đi đến thành phố B chơi. Khi đến đoạn đường tránh B H thuộc địa phận xã D, huyện C, thì S bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Công an xã D và Đội Cảnh sát điều tra tội về Kinh tế - Ma túy thuộc Công an huyện Cư Mgar yêu cầu dừng xe và mời về xã D, huyện C để làm việc. Tại đây S đã lấy từ bên trong túi áo khoác màu đen đang mặc 01 gói nylon trong suốt, bên trong gói nylon có chứa 01 gói nylon trong suốt khác có chứa chất rắn dạng tinh thể là ma túy đá. Sau đó Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tạm giữ, niêm phong số ma túy đã thu giữ của S theo quy định pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số 1161/KL-KTHS ngày 25/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 6,7433 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Minh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh S 06 (Sáu) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 18/11/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 31/3/2023, bị cáo Lê Minh S có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lê Minh S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã nhận định, cũng như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Minh S 06 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Minh S 06 (Sáu) năm 09 (Chín) tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo và lời khai của những người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/11/2022, tại khu vực đoạn đường tránh B H, thuộc xã D, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, Lê Minh S bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Công an xã D và Đội Cảnh sát điều tra tội về Kinh tế - Ma túy thuộc Công an huyện Cư M’gar kiểm tra và phát hiện bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ trái phép 6,7433 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Minh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có 01 tiền án: Tại Bản án phúc thẩm số 32/2015/HS-PT ngày 28/01/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Ngày 23/5/2015 chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa chấp hành nghĩa vụ án phí và tiền sung ngân sách nhà nước nên chưa được xóa án tích); 01 tiền sự: Ngày 22/01/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Bị cáo còn có nhân thân xấu: Tại Bản án số 175/2005/HSST ngày 29/8/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; tại Bản án số 37/2016/HSST ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy nên phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Do đó, mức hình phạt 06 năm 09 tháng tù Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, HĐXX không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Minh S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh S.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lăk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh S 06 (Sáu) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 18/11/2022.

[3]. Về án phí: Bị cáo Lê Minh S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-PT

Số hiệu:116/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về