Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến từ điểm cầu trung tâm tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa đến điểm cầu tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đức Hòa đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Bình L, sinh ngày 11/10/1996, tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Trung K và bà Lê Thị Bích T; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thảo T và 02 con, lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 156/2014/HSST ngày 28/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xử phạt Trần Bình L 07 tháng 14 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; ngày 19/8/2015, bị cáo L chấp hành xong bản án, đương nhiên xóa án tích; tại bản án số 67/2015/HSST ngày 17/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xử phạt Trần Bình L 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/7/2016, bị cáo L chấp hành xong bản án, đương nhiên xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022 cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng:

1/ Nguyễn Đức T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. (vắng mặt)

2/ Văn Nguyễn D, sinh năm 2004. Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 30/4/2022, bị cáo Trần Bình L đi bộ đến cổng sau quán Karaoke An Khang thuộc ấp 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An để tìm mua ma túy nhằm mục đích sử dụng. Tại đây, bị cáo L gặp 01 nam thanh niên tên M không rõ nhân thân lai lịch và hỏi mua ma túy dạng đá của nam thanh niên trên với số tiền 400.000 đồng, M đồng ý bán cho bị cáo L 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa ma túy (dạng đá). Bị cáo L cầm trên tay phải rồi đi bộ tìm chỗ sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày, bị cáo L cầm ma túy trên tay đi bộ đến trước cửa hàng vật liệu xây dựng Quốc Linh thuộc ấp T, xã H thì bị Công an kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng vụ án.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá.

Tại Kết L giám định số 384 ngày 06/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết L:

“Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon hàn kín được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,5141 gam, loại: Methamphetamine.” Hoàn lại đối tượng gửi giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3147 gam được đóng gói niêm phong số 384./.”

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Bình L hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan, không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại về kết L giám định, đồng thời không khiếu nại đối với Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKSĐH ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Trần Bình L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tham gia phiên tòa vẫn giữ y quan điểm như Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật, đồng thời phân tích đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Bình L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Trần Bình L mức hình phạt từ 02 năm tù đến 02 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022; áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Bình L 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3147 gam được đóng gói niêm phong số 384 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An: đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về biện pháp tư pháp: Bị cáo Trần Bình L không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị không đề cập, xem xét.

Đối với người thanh niên tên M có hành vi bán chất ma túy cho bị cáo L, do không xác định nhân thân lai lịch, chỉ có lời khai Duy nhất của bị cáo L nên không có căn cứ xử lý.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Bình L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Bình L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 19 giờ 40 phút ngày 30 tháng 4 năm 2022 cùng với bản kết L giám định số 384/KT- KTHS ngày 06/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Long An và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Bị cáo Trần Bình L là người nghiện ma túy, khoảng 19 giờ 40 phút ngày 30 tháng 4 năm 2022, tại ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, bị cáo Trần Bình L có hành vi tàng trữ trái phép 01 bịch nylon hàn kín bên trong có khối lượng: 0,5141 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, làm suy thoái nòi giống, gây mất trật tự xã hội.

Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ma túy đối với xã hội và bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi của bị cáo Trần Bình L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Trần Bình L theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, có mức án phù hợp, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trừng phạt, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Bình L phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì hành vi phạm tội bị cáo L còn có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo L trình bày có hoàn cảnh khó khăn đang nuôi con nhỏ nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Bình L.

[5]. Về biện pháp tư pháp: Bị cáo Trần Bình L không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập, xem xét

[6]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm có khối lượng: 0,3147 gam được đóng gói niêm phong số 384 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Đối với người thanh niên tên M bán ma túy cho bị cáo L, do không xác định nhân thân lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo L, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau nên không đề cập xem xét.

[8]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Bình L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Bình L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Bình L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Bình L 45 ngày kể từ ngày tuyên án (14/9/2022) để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3147 gam được đóng gói niêm phong số 384 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An .

Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 103 ngày 10/8/2022.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Trần Bình L nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Án xử sơ thẩm công khai. Căn cứ Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về