TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 147/2020/HS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:
Chướng Mùn S, sinh năm 1991, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Khu phố 4, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chướng Cắm S, sinh năm 1968 (chết) và bà Trần Thị P, sinh năm 1969 (chết); tiền sự: không; tiền án: 02, ngày 28/5/2013, bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh), tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; ngày 16/9/2013, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em”. Tổng hợp với hình phạt 04 năm 06 tháng tù của Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 08 năm 06 tháng tù, bị cáo chấp hành xong 01/02/2019. Nhân thân: Ngày 04/8/2010, bị Ủy ban nhân dân phường Xuân Trung, thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp giáo dục tại xã theo Nghị định 163/CP về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 04/02/2011.
Bị cáo Chướng Mùn S bị tạm giữ, bị tạm giam từ ngày 29/5/2020 cho đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Long Khánh. Có mặt.
- Người làm chứng:
1) Chị Trần Thị Hà N, sinh năm 2004. Nơi cư trú: 117/8, khu phố 4, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.
Người đại diện theo pháp luật của chị N: Bà Vy Thị Thanh P– Bí thư chi đoàn phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.
2) Chị Phạm Thị M, sinh năm 1993. Nơi cư trú: xã V, huyện L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
3) Anh Nguyễn Ngọc Hòa H, sinh năm 1975. Nơi cư trú: hẻm 110 T, khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; Nơi cư trú: khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chướng Mùn S là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 13 giờ ngày 28/05/2020, S đi xe máy biển số 59K1-X đến quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) 2.600.000đồng được 01 bịch ma túy đá và 01 cục heroin, sau đó mang về nhà tại hẻm 110/5 T, khu phố 2, phường X, thành phố L, do anh Nguyễn Ngọc Hòa H, sinh năm 1975 làm chủ (S ở nhờ nhà anh H từ ngày 24/5/2020), S lấy ma túy ra sử dụng một ít sau đó lấy 01 cục heroin phân ra 01 cục heroin và 12 tép heroin; 01 bịch ma túy đá phân làm 05 bịch nhỏ. Đến 12 giờ 30 phút ngày 29/05/2020, S lấy 01 tép heroin và 02 bịch ma túy đá nhỏ cất giấu trong người đang ở trước nhà tại 110/5 T, khu phố 2, phường X, thành phố L định đem đi nơi khác sử dụng thì bị Công an phường X kiểm tra bắt quả tang, thu giữ trên người S 01 tép heroin và 02 bịch ma túy đá. Tiến hành khám xét phòng ngủ của S ở nhà anh H tại hẻm 110/5 T, khu phố 2, phường X, thành phố L tiếp tục thu giữ 01 bịch ny lông bên trong chứa 01 cục heroin; 11 tép heroin và 03 bịch ma túy đá S cất giấu trên đầu tủ trong phòng ngủ của S, S khai đó là ma túy của S cất giấu để sử dụng nên Công an đã niêm phong tang vật đưa S về làm việc.
Vật chứng thu giữ: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh thu giữ 02 bịch ma túy đá, 01 tép heroin trong túi quần của S, khám xét thu giữ trên đầu tủ trong phòng ngủ của S 03 bịch ma túy đá, 01 bịch chứa một cục heroin, 11 tép heroin; 01 xe máy hiệu Exciter, màu đen, biển số 59K1 – X; 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh.
Tại bản Kết luận giám định số 1115/KLGĐ-PC09 ngày 03/06/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:
Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M11) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,6512 gam, loại: Heroin; Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M12) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng:
2,6736 gam, loại: Methamphetamine. Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M21) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0229 gam, loại:
Heroin. Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M22) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,7824 gam, loại: Methamphetamine.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 112 ngày 14/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Khánh kết luận: Một xe máy hiệu Yamaha - Exciter, màu đen, biển số 59K1 – X, xe đã qua sử dụng (thời điểm tháng 9/2020), có giá trị: 8.250.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 134/CT-VKS-LK ngày 30/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh truy tố bị cáo Chướng Mùn S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Ngày 08/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh cung cấp Quyết định sửa đổi, bổ sung Cáo trạng số 01/QĐ-VKS-LK ngày 08/01/2021, sửa đổi, bổ sung Cáo Trạng số 134/CT-VKS-LK ngày 30/10/2020, xác định xe máy hiệu Yamaha – Exciter màu đen, biển số 59K1-X là xe của anh Nguyễn Văn T , sinh năm 1991, địa chỉ tổ 17, khu phố T, thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị mất trộm tại thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên tách xe mô tô trên ra điều tra và xử lý sau. Đồng thời xác định bị cáo S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Chướng Mùn S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bổ sung thêm điểm n, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Các nội dung khác tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKS-LK ngày 30/10/2020 được giữ nguyên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành Long Khánh, tỉnh Đồng Nai đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Áp dụng điểm g, n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Chướng Mùn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo S từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù.
Về xử lý vật chứng:
+ Xe máy hiệu Yamaha – Exciter màu đen, biển số 59K1-25178 là xe của anh Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1991, địa chỉ tổ 17, khu phố T, thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị mất trộm tại thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên tách xe mô tô trên ra điều tra và xử lý sau;
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;
+ Đối với điện thoại di động hiệu Realme màu xanh S khai chỉ dùng chơi game không sử dụng để phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại điện thoại cho gia đình S nên không xét.
Đối với Nguyễn Ngọc Hòa H cho S ở nhờ không biết bị cáo S tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý.
Đối với người đàn ông ở Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh đã bán ma túy cho bị cáo S hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh phạt hiện phối hợp xử lý sau.
Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo Chướng Mùn S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo rất hối hận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 29/5/2020, tại trước nhà anh Nguyễn Ngọc Hòa H, hẻm 110/5 T, khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, Công an thành phố Long Khánh kiểm tra bắt quả tang Chướng Mùn S đang tàng trữ trái phép ma túy 01 tép Heroin và 01 bịch ma túy đá. Kiểm tra phòng ngủ của S Công an thu giữ 01 bịch ni long bên trong chứa 01 cục Heroin; 11 tép Heroin và 03 bịch ma túy đá. Khối lượng ma túy mà S tàng trữ là 0,6741 gam, loại Heroin và 4,4560 gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy bị cáo S tàng trữ là 5,13 gam. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Chướng Mùn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đánh giá tính chất, mức độ của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn xâm phạm trực tiếp đến trật tự, an toàn công cộng, ma túy là tác nhân gây ra sự nghiện ngập, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, khả năng lao động của người sử dụng; việc sử dụng ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh một số tội phạm khác nên cần phải xử lý nghiêm.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt:
Mục đích bị cáo mua chất ma túy về cất giấu để sử dụng. Số ma túy thu giữ ngày 29/5/2020, được giám định và theo kết luận giám định số: 1115/KLGĐ-PC09 ngày 03/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai thì hai chất ma túy mà S tàng trữ là 0,6741 gam, loại Heroin và 4,4560 gam, loại Methamphetamine là hai chất ma túy cùng nằm trong quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo quy định tại Điều 4, Chương 2 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 5,13 gam. Như vậy, hành vi tàng trữ tàng trữ 5,13 gam ma túy của bị cáo thuộc quy định tại điểm g, n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, bị cáo có 02 tiền án về tội phạm rất nghiệm trọng do cố ý chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiệm trọng do cố ý. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm g, n, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung Quyết định sửa đổi, bổ sung cáo trạng số 01/QĐ-VKS-LK ngày 08/01/2021, của Viện kiểm sát là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, nhưng bị cáo là người đã trưởng thành, bản thân nhận thức được việc sử dụng ma túy, tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy, muốn có ma túy để sử dụng nên đã thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo có nhân thân xấu nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, biết tuân thủ pháp luật đồng thời có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Ngoài hình phạt chính, Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án:
- Đối với xe máy hiệu Yamaha – Exciter màu đen, biển số 59K1-X, quá trình chuẩn bị xét xử vụ án, Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Khánh xác định là xe của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991. Nơi cư trú: tổ 17, khu phố T, thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị mất trộm tại thị trấn Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên đề nghị tách xe mô tô trên ra điều tra và xử lý sau là phù hợp.
- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu xanh, S chỉ sử dụng để chơi game không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan công an đã trả lại cho gia đình S nên không xét.
Đối với số ma túy còn lại sau giám định tịch thu tiêu hủy theo quy định.
Đối với anh Nguyễn Ngọc Hòa H cho S ở nhờ, anh Hiệp không biết S tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý.
Đối với người đàn ông ở Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh đã bán ma túy cho S hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ các điểm g, n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Chướng Mùn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Chướng Mùn S 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/5/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa chất ma túy, có số hiệu 1115/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
(Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/10/2020).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Chướng Mùn S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 10/2021/HS-ST
Số hiệu: | 10/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về