Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 16/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh S, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST - HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo.

1. Họ và tên: Lò Văn L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 09 tháng 02 năm 2002; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản C, xã C, huyện Q, tỉnh S; Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ học vấn: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Lò Văn D, sinh năm 1973 và con bà Quàng Thị I, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30 tháng 7 năm 2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Lò Văn L: Ông Đàm Mạnh H – Luật sư, Cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh S. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 25 phút, ngày 30 tháng 7 năm 2022 Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Q, tỉnh S làm nhiệm vụ phòng chống ma túy tại khu vực bản K, xã M, huyện Q, tỉnh S đã phát hiện bắt quả tang Lò Văn L, sinh năm 2002, trú tại bản C, xã C, huyện Q đang thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

* Vật chứng thu giữ gồm:

01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Lò Văn L tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên trái đang mặc ra giao nộp và khai nhận đó là gói ma túy của L.

Hồi 03 giờ 50 phút ngày 30 tháng 7 năm 2022 cơ quan điều tra Công an huyện Q phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Lò Văn L, kết quả: Lò Văn L âm tính với chất ma túy (lý do sau khi mua được ma túy, L chưa kịp sử dụng thì đã bị phát hiện, bắt giữ).

Hồi 09 giờ 05 phút ngày 30/7/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định vật chứng đối với chất cục bột màu trắng thu giữ của Lò Văn L. Kết quả: Chất cục bột màu trắng có khối lượng là 0,12g. Lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu A1.

Tại Kết luận giám định số: 1314 ngày 01/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy; loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là A1 0,12 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,12 gam Heroine”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn L khai nhận như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 29 tháng 7 năm 2022 Lò Văn L đi chơi ở bản X, xã M, huyện Q về, trên đường về đến khu vực bản X, xã M, L gặp một người đàn ông không bết tên đang ngồi sử dụng điện thoại, L nghĩ người đàn ông đó là người nghiện ma túy nên đã đến hỏi mua ma túy, qua trao đổi L mua được một gói ma túy với số tiền 50.000đ. Sau khi mua được ma túy, L tiếp tục đi bộ về nhà, khi đi đến khu vực bản K, xã M thì bị tổ công tác Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang đồng thời thu giữ gói ma túy của L.

Bản cáo trạng số: 52/CT-VKS-QN ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Lò Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Q phát biểu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự - Xử phạt bị cáo Lò Văn L 14 tháng đến 16 tháng tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 30/7/2022) Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên tiêu hủy: + 01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn L, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm:

01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép dán giấy giáp lai phong bì có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q.

Án phí: Đề nghị HĐXX Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án – Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn L là 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng).

Quan điểm bào chữa của luật sư Đàm Mạnh H đối với bị Lò Văn L. Lời khai của bị cáo L tại giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng xác định được các tình tiết của vụ án. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã tiếp tục thể hiện sự thành khẩn khai báo của bản thân và thể hiện rõ thái độ ăn năn hối cải, nhân thân tốt, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật, bị cáo hiện đang sinh sống tại xã đặc biệt khó khăn.

Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lò Văn Luân 12 tháng tù. Đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo Lò Văn L.

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Điều tra viên Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa về thời gian, địa điểm và diễn biến sự việc phù hợp với các căn cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ, Kết luận giám định “Tổng trọng lượng chất thu giữ được của Lò Văn L là 0,12 gam Heroine”.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 30 tháng 7 năm 2022 tại khu vực bản K, xã M, huyện Q, tỉnh S. Lò Văn L đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Xét tính chất vụ án: Vụ án xảy ra là nghiêm trọng, bởi lẽ ma túy là hiểm họa của cả nhân loại và của mỗi gia đình, nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm phát sinh như trộm cắp, cướp của, giết người…, gây ảnh hưởng xấu trực tiếp đến an ninh trật tự xã hội. Đặc biệt ma túy là nguyên nhân suy thoái nòi giống và làm băng hoại đạo đức, là nguyên nhân dẫn đến nhiều gia đình bố mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, anh em ruột thịt xa lánh, kinh tế gia đình lâm vào cảnh khốn khó.

Do nhiều tác hại vô cùng lớn mà ma túy mang lại cho xã hội nên Nhà nước liên tục cảnh báo và thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu rõ tác hại của ma túy đối với xã hội và pháp luật cũng đặc biệt nghiêm trị loại tội phạm liên quan đến ma túy.

Lò Văn L là thanh niên trẻ, có sức khỏe, có nhận thức về xã hội và pháp luật, nhưng do ham chơi đua đòi nên đã đi vào con đường nghiện chất ma túy, để có ma túy sử dụng cho bản thân bị cáo đã mua ma túy về để sử dụng. Bản thân bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do nhu cầu của bản thân nên ngày 30/7/2022 Lò Văn L đã tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroine. Bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

....

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Hành vi của bị cáo Lò Văn L không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác, nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 249 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà. Bị cáo Lò Văn L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Từ những đánh giá nêu trên HĐXX xét thấy cần áp dụng một mức án, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Xét thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, không có tài sản giá trị lớn, các bị cáo sống phụ thuộc vào gia đình. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng vụ án:

01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn Luân, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép dán giấy giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 005389 có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q. Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật chứng không có giá trị sử dụng, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

[4] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc 0,12 gam Heroine, bị cáo Lò Văn Luân khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực đường thuộc bản xa, xã Mường Giôn, tỉnh S vào ngày 29/7/2022 với số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Qúa trình điều tra xác định Luân không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông đó, việc mua bán không có ai chứng kiến và tham gia cùng. Do vậy Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xử lý.

[5] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo là người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn – Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn L là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt Lò Văn L 14 (Mười bốn) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 30/7/2022).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Lò Văn L

2. Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy:

01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn L, tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01 mảnh giấy màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Mặt sau tại mép dán giấy giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 005389 có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, cùng hai dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 04/2022 ngày 12/10/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh S) 3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án – Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn L.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, Luật sư có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về