Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 140/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 140/2022/HS-PT NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Nhất L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1377/2022/QĐXXPT ngày 18 tháng 3 năm 2022.

- B cáo có kháng cáo:

NGUYỄN NHẤT L; Tên gọi khác: Liều; Sinh ngày: 03/9/1989 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: Tổ 01 phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Ngọc H1 và bà Nguyễn Thị B, gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ là Khưu Thị H2 (sinh năm 1994, đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Chưa; Nhân thân: Ngày 31/7/2012 bị Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng xử 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong án tù ngày 29/8/2013. Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/3/2021. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Nhất L: Luật sư Trương Hùng Th, Công ty Luật TNHH D, Đoàn Luật sư TP. Đà Nẵng. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo.

Bà Nguyễn Thị Thủy T1, sinh năm 1992, nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Tổ 01 phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 12/3/2021, tại trước số nhà 960 đường N, thuộc phường H3, quận L, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận L, thành phố Đà Nẵng, bắt quả tang thu giữ tại túi quần bên phải của Nguyễn Nhất L:

- 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (13x8)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (16x10)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Đã được niêm phong theo quy định pháp luật; ký hiệu: A.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu xanh gắn sim 0905.372.749.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xám gắn sim 0906.222.215 và sim 0906.222.213.

Lúc 20 giờ 00 phút, ngày 12/3/2021, khám xét khẩn cấp chỗ ở Nguyễn Nhất L, tại tổ 01, phường H, quận L, TP Đà Nẵng.

Tang vật thu giữ:

Tại phòng ngủ của Nguyễn Nhất L:

- Trong túi xách có ghi dòng chữ Nguyễn C có 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (10x14)cm; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (8x13,5)cm; 03(ba) gói nilong kích thước khoảng (7,5x13)cm. Tất cả đều chứa tinh thể màu trắng.

- 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 200 (hai trăm) viên nén màu tím;

- 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 210 (hai trăm mười) viên nén màu tím;

- 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 30 (ba mươi) viên nén màu cam;

- 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (8x12)cm bên trong có chứa 50 (năm mươi) viên nén màu xanh lá cây;

- 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (10x16)cm bên trong có chứa 200 (hai trăm) viên nén màu xanh lục;

- 01 (một) gói nilong bên trong có 130 (một trăm ba mươi) viên nén màu đỏ;

- 02 (hai) gói nilong kích thước khoảng (8x13)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 02 (hai) gói nilong kích thước khoảng (7,5x13)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 (một) cân tiểu ly;

- 50 (năm mươi) bao ni long rỗng có kích thước (3x3)cm.

Tại vị trí kệ bếp:

- 01 (một) gói giấy màu vàng bên trong có 02 gói ni long kích thước (15x25)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng;

- 40 (bốn mươi) bao ni long rỗng có kích thước (13,5x8)cm;

- Số tiền 120.000.000đ (Một trăm hai chục triệu đồng) trong két sắt.

Tất cả được niêm phong theo đúng quy định pháp luật.

Trong đó, mẫu ký hiệu B được phân thành: B1 chứa tinh thể màu trắng trong 10 gói nilong kích thước khác nhau; B2 chứa 200 viên nén màu xanh trong 01 gói nilong; B3 chứa 50 viên nén màu xanh lá cây trong 01 gói nilong; B4 chứa 130 viên nén màu đỏ trong 01 gói nilong; B5 chứa 30 viên nén màu cam trong 01 gói nilong; B6 chứa 410 viên nén màu tím trong 01 gói nilong.

* Tại Kết quả giám định số 72 ngày 25/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

- Tinh thể rắn màu trắng trong các gói nilong niêm phong ký hiệu A, ký hiệu B1 và các viên nén màu đỏ trong gói nilong ký hiệu B4 gửi giám định là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng mẫu A là 99.70 gam, khối lượng mẫu B1 là 2.438,51 gam; khối lượng mẫu B4 là 13,094 gam.

- Các viên nén trong các gói nilong niêm phong ký hiệu B3, B5 gửi giám định là ma tuý, loại MDMA, khối lượng mẫu B3 là 21,591 gam, khối lượng mẫu B5 là 8,979 gam.

- Tinh thể rắn màu trắng trong các gói nilong niêm phong ký hiệu C gửi giám định là ma tuý, loại Katemine, khối lượng mẫu C là 237,90 gam.

- Chuyển mẫu B2 và B6 đến Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Đà Nẵng để giám định chủng loại ma tuý, khối lượng mẫu B2 là 64,70 gam, khối lượng mẫu B6 là 126,85 gam.

* Kết luận giám định số 400/GĐ-MT ngày 12.4.2021 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Mẫu các viên nén màu xanh (ký hiệu A2) và các viên nén màu tím (ký hiệu A6) gửi giám định đều là ma tuý, loại Eutylone (bk- EBDB, N- Ethylbutylone).

Tổng cộng khối lượng ma tuý như sau:

- Ma túy loại MDMA và Methamphetamine là: 2.568,78 gam và mẫu B4 là 13,094 gam.

- Ma túy loại Ketamine là: 237,90 gam.

- Ma túy loại Eutylone (bk-EBDB, N-Ethylbutylone) là: 191,55 gam.

Quá trình điều tra xác định như sau:

Nguyễn Nhất L quen biết với nam thanh niên tên Bi (không rõ nhân thân, lai lịch) thông qua mối quan hệ quen biết khi đi chấp hành án tại Bình Điền. Bi sử dụng số điện thoại 0834.616.009 liên lạc cho L số điện thoại 0906.222.215 và đến nhà L tại tổ 1, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, giao cho L số ma túy gồm: 0,5 kg ketamin, 1.000 viên thuốc lắc (nhiều loại, nhiều màu), 1 kg đá và 200 viên hồng phiến. L và Bi thống nhất khi nào khách của Bi tại Đà Nẵng liên hệ mua ma túy thì Bi thỏa thuận giá cả với khách rồi liên lạc cho L 02 (hai) số điện thoại 0906.222.215 và 0906.222.213 biết, Bi gửi số điện thoại khách mua ma túy cho L để L liên hệ đi giao ma túy và nhận tiền theo yêu cầu của Bi.

Số ma túy này, L đã bán theo yêu cầu của Bi nhiều lần (không nhớ rõ), cho nhiều người (không rõ nhân thân lai lịch). Khoảng nửa tháng sau, Bi gặp và trả tiền công L bán ma túy giúp Bi là 16.000.000d. Đồng thời, thống nhất với L là bán lại toàn bộ số ma túy còn lại cho L với giá: 0,5 kg ketamin giá 280.000.000đ, 1.000 viên thuốc lắc giá 180.000.000đ, 01kg đá giá 220.000.000đ, 200 viên hồng phiến giá 5.000.000đ. Khi nào bán xong thì trả tiền dần cho Bi. L đồng ý và mua bán một mình, khi nào cần ma túy thì liên hệ Bi để mua.

Số ma túy này L đã bán cho nhiều người (không rõ nhân thân, lai lịch, không nhớ số điện thoại) với giá ketamine là 8.000.000đ/10gam, thuốc lắc là 250.000đ/l viên, đá là 3.500.000đ/10gam. Trong số những người này, L chỉ xác định đã bán cho Lê Văn C nhiều lần (không nhớ rõ thời gian), giao ma túy rồi nhận tiền tại nhà c và chỉ xác định được 02 (hai) lần; cụ thể:

- Lần thứ nhất: Cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần, bán cho C 100 gam ma túy đá với giá 35.000.000đ hưởng lợi được 13.000.000đ; cộng tiền công Bi trả cho L (khi bán ma túy chung) 16.000.000đ. Tổng tiền thu lợi từ việc bán ma túy là 29.000.000đ (Hai mươi chín triệu);

- Lần thứ hai: Vào chiều ngày 12/03/2021, khi L ở nhà bạn gái là Trần Thị S tại khu vực Kiệt 216 đường A, thành phố Đà Nẵng, C sử dụng số điện thoại 0774934395 liên lạc cho L qua số 0905372749 để đặt mua 100 gam ma túy đá. L đồng ý và liên hệ trên phần mềm Grab đặt ô tô gắn biển số 75A-117.57 do Phạm K (Sinh năm: 1988; Trủ tại: tổ 1, phường H3, quận L, thành phố Đà Nẵng) điều khiển đón L từ 216 đường A, Đà Nẵng về nhà của L tại tổ 1, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Đến nơi, L yêu cầu Khoa chờ ngoài, L vào nhà và lấy 02 (hai) gói ma túy đá phân sẵn bỏ vào túi quần bên phải rồi lên lại xe Grab. L yêu cầu Khoa chở đến số 960 đường N, thành phố Đà Nẵng, để L bán ma túy cho C. Khi đến nơi, L vừa bước xuống xe, chưa kịp bán thì bị Cơ quan CSĐT- Công an quận L phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 gói ma túy.

Số ma túy còn lại chua kịp bán thì bị thu giữ khi khám xét chỗ ở của L tại tổ 1, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Riêng 200 viên ma túy hồng phiến, L cất giấu tại phòng ngủ của L với mục đích là sử dụng, không nhằm mục đích mua bán. L đã sử dụng một mình hết 70 viên, còn lại 130 viên bị thu giữ:

Ngoài lần mua ma túy của Bi ở trên, vào sáng ngày 12/03/2021, Bi mang ma túy đến đặt trước nhà L và liên lạc cho L bảo mang ma túy vào nhà cất (vì khi Bi đến L không có ở nhà). L đồng ý, khi về L mang gói ma túy vào nhà đặt trên kệ bếp, kiểm tra đúng 02 (hai) kg ma túy đá rồi liên lạc lại cho Bi biết đã nhận ma túy, giá cả như thỏa thuận từ trước là 220.000.000đ/lkg, tổng tiền là 440.000. 000đ, Bi cho nợ. L chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ khi khám xét.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhất L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều khoản áp dụng và hình phạt:

- Căn cứ: Điểm h khoản 4 Điều 251, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 40 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Nhất L Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyên Nhất L 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt chung của cả 2 tội, buộc bị cáo phải chấp hành là Tử hình.

3. Về xử lý vật chứng: Buộc bà Nguyễn Thị Thủy T1 phải nộp số tiền 120.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng khác, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.

- Ngày 24/9/2021, bị cáo Nguyễn Nhất L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

- Ngày 21/9/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thủy T1 kháng cáo xin được nhận số tiền 120.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Nhất L rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thủy T1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo;

- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhất L và bác kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thủy T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy đủ căn cứ kết luận: Vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 12/3/2021, tại trước số nhà 960 đường N, thuộc phường H3, quận L, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận L, thành phố Đà Nẵng, bắt quả tang thu giữ tại túi quần bên phải của Nguyễn Nhất L: 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (13x8)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (16xl0)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Đã được niêm phong theo quy định pháp luật; ký hiệu: A.

- Lúc 20 giờ 00 phút, ngày 12/3/2021, khám xét khẩn cấp chỗ ở Nguyễn Nhất L, tại tổ 01, phường H, quận L, TP Đà Nẵng.

Tang vật thu giữ: 01 túi xách bên trong có 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (10x14)cm; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (8x13,5)cm; 03(ba) gói nilong kích thước khoảng (7,5x13)cm. Tất cả đều chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 200 (hai trăm) viên nén màu tím; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 210 (hai trăm mười) viên nén màu tím; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 30 (ba mươi) viên nén màu cam; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (8x12)cm bên trong có chứa 50 (năm mươi) viên nén màu xanh lá cây; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (10x16)cm bên trong có chứa 200 (hai trăm) viên nén màu xanh lục; 01 (một) gói nilong bên trong có 130 (một trăm ba mươi) viên nén màu đỏ; 02 (hai) gói nilong kích thước khoảng (8x13)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 02 (hai) gói nilong kích thước khoảng (7,5x13)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) gói giấy màu vàng bên trong có 02 gói ni long kích thước (15x25)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và số tiền 120.000.000đ (Một trăm hai chục triệu đồng) trong két sắt.

* Tại Kết quả giám định số 72 ngày 25/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng và Kết luận giám định số 400/GĐ-MT ngày 12/4/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận kết luận: Tổng cộng khối lượng ma tuý như sau:

- Ma túy loại MDMA và Methamphetamine là: 2.568,78 gam và mẫu B4 là 13,094 gam.

- Ma túy loại Ketamine là: 237,90 gam.

- Ma túy loại Eutylone (bk-EBDB, N-Ethylbutylone) là: 191,55 gam.

Với hành vi trên, bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhất L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (với khối lượng 2.998,23 gam) theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” (với khối lượng 13,094 gam) theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, nhận thấy:

Tại phiên tòa bị cáo tự nguyện rút toàn bộ nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nên hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhất L; bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo L có hiệu lực pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thủy T1, nhận thấy:

Căn cứ biên bản khám xét khẩn cấp ngày 12/3/2021, lời khai ban đầu của bị cáo Nguyễn Nhất L trong giai đoạn điều tra thì số tiền 120.000.000 đồng là thu giữ trong két sắt của bị cáo; bị cáo là người nắm giữ mật khẩu mở khóa két và chính bị cáo thừa nhận số tiền này là của bị cáo. Mặt khác, quá trình khám xét khẩn cấp và thu giữ vật chứng, bà T1 và bà B (mẹ bà T1) cũng có mặt nhưng không có ý kiến gì về số tiền này. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bà T1 cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền trên bà T1 gửi cho bà Ba và bà Ba bỏ tiền vào két sắt của bị cáo. Do đó, án sơ thẩm buộc bà T1 nộp lại số tiền 120.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước là có căn cứ, nên không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thủy T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này.

[4]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Về án phí phúc thẩm:

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

- Bà Nguyễn Thị Thủy T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhất L; bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo L có hiệu lực pháp luật.

Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Nguyễn Nhất L được quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thủy T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Buộc bà Nguyễn Thị Thủy T1, sinh năm 1992 (nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Tổ 10, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng) phải nộp số tiền 120.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thủy T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo bản án hình sự sơ thẩm số 65/2021/HS-ST ngày 15/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

522
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 140/2022/HS-PT

Số hiệu:140/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về