Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (thuốc lắc) số 200/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 200/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, Thành phố H, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 198/2022/HSST ngày 16 tháng 9 năm 2022 - theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/QĐ-HS ngày 17 tháng 9 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. VŨ NHẬT L; sinh ngày 25 tháng 01 năm 1996 tại H; hộ khẩu thường trú: Số 51 phố T, phường N, quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Quang T và bà: Lộc Thị Kim L.

Danh chỉ bản số: 243 lập ngày 06/5/2022 tại Công an quận H, Thành phố H.

02 Tiền án:

1. Ngày 27/11/2018 Tòa án nhân dân quận Tây Hồ kết án 24 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Ngày 30/5/2019 Tòa án nhân dân quận Ba Đình kết án 18 tháng tù về tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi(ngày phạm tội là ngày 20/9/2018). Tổng hợp hình phạt với Bản án số 176 ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 42 tháng tù.

Bắt quả tang: 28/4/2022 Tạm giữ: 29/4/2022;

Tạm giam: 08/5/2022 Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Thành phố H.

(Có mặt).

2. TRẦN THỊ H; sinh ngày 19 tháng 11 năm 1999 tại Trại giam tỉnh Q; hộ khẩu thường trú: Tổ 21, phường V, quận M, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn H (đã chết) và bà: Phạm Thị H (đã chết).

Danh chỉ bản số: 242 lập ngày 06/5/2022 tại Công an quận H, Thành phố H.

Tiền án, tiền sự: (không). Tạm giữ: 29/4/2022;

Tạm giam: 08/5/2022 Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Thành phố H.

(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 21h30’ ngày 28/4/2022 Tổ công tác Công an phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H phát hiện Vũ Nhật L điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx dừng, đỗ trước cửa số nhà 01 Đồng Xuân, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L tự nguyện giao nộp trong lót giày bên phải 01 túi nylon chứa ma túy “đá” và trong túi xách màu đỏ 01 túi nylon chứa 25 viên nén màu xanh và 02 túi nylon chứa tinh thể màu trắng, L khai nhận là ma túy “thuốc lắc” và ma túy “Ketamine” đang mang đi bán. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trên L khai vừa mua của Trần Thị H tại số 01 Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H. Tổ công tác đã dẫn L chỉ địa điểm mua ma túy và phát hiện H, cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2020; Nguyễn Hồng D, sinh ngày 01/7/2006; trú tại: xã X, phường T, Thành phố Hải Dương - tỉnh Hải Dương và Vũ Nhật A, sinh năm 2001; trú tại: 51 T, phường N, quận B, Thành phố H đang đứng trước cửa số 01 Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H. Tại chỗ, H khai nhận vừa bán trái phép ma túy cho Vũ Nhật L. Tổ công tác đưa L, H, D và A cùng tang vật về trụ sở Công an phường Đồng Xuân để giải quyết.

Ngoài ra, còn thu giữ của Vũ Nhật L: 01 túi xách vải màu đỏ loại kéo khóa ngang kích thước 50x30x30cm, 01 điện thoại Samsung màu xanh kèm số thuê bao 039723xxxx và 092436xxxx, 01 chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen biển kiểm soát 34B3-xxxxx.

Công an thu giữ của Trần Thị H: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 màu xanh gắn sim 0902096105, 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám không sim, 01 chiếc xe máy Honda Wave màu đen biển kiểm soát 29B2-xxxx;

Công an thu giữ của Vũ Nhật A: 01 chiếc điện thoại Redmi màu đen kèm số thuê bao: 0338618517;

Tại Bản kết luận giám định số 2832/KLGĐ-PC09 ngày 05/5/2022, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nylon là ma túy Methamphetamine, khối lượng: 0,965 gam; tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nylon đều là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng: 2,887 gam; 25 viên nén màu xanh bên trong 01 túi nylon đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 9,946 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Nhật L khai nhận: Khoảng 17h00’ ngày 28/4/2022 L nhận được điện thoại từ số thuê bao 096323xxxx của một người bạn xã hội tên H1 hỏi mua 25 viên ma túy “thuốc lắc” và 02 chỉ ma túy “Ke” với giá 20.000.000 đồng. L đồng ý và sử dụng ứng dụng Mesenger liên hệ với Trần Thị H để hỏi mua ma túy với giá 13.000.000 đồng. Sau đó, L nhờ Vũ Nhật A (là em trai của L) chở đi gặp H ở ngã ba Trần Nhật Duật - Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H. Khi đến nơi, A dừng xe đứng đợi. Còn L xuống xe gặp H đang ngồi trên yên sau của chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx do Nguyễn Hồng D điều khiển. Lúc này, H đưa ma túy cho L, L cất vào trong túi vải màu đỏ và mượn chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx rồi thỏa thuận mang ma túy bán cho H1 xong sẽ quay lại trả cho H 13.500.000 đồng tiền ma túy. Sau đó, L điều khiển chiếc xe máy trên đi đến số 01 Đồng Xuân thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Nếu bán thành công số ma túy nêu trên, L được hưởng lời 6.500.000 đồng. Vũ Nhật A không biết, không liên quan đến hành vi bán ma túy của L.

Ngoài ra, L còn khai: Khoảng 16h55’ ngày 28/4/2022 L đang ở phố Đào Tấn, quận Ba Đình, Thành phố H thì người bạn xã hội tên H1 nêu trên gọi điện thoại hỏi L có dùng ma túy “đá” không và H1 đã ship cho L 01 túi nylon ma túy “đá”. Sau khi nhận được ma túy, L cất vào lót giày bên phải với mục đích để bán kiếm lời. Chiếc túi xách vải màu đỏ loại kéo khóa ngang kích thước 50x30x30cm và chiếc điện thoại Samsung màu xanh kèm số thuê bao 039723xxxx và 092436xxxx là tài sản cá nhân của L, sử dụng để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị H khai nhận: Khoảng 19h30’ ngày 28/4/2022 H nhận được nhắn tin qua ứng dụng Mesenger của Vũ Nhật L để hỏi mua 25 viên ma túy “kẹo” và 02 “chỉ” ma túy Ketamine, thỏa thuận giá bán là 13.000.000 đồng và 500.000 đồng tiền vận chuyển. Sau đó, H liên hệ với một người bạn xã hội tên “Bờm” sử dụng số điện thoại 039759xxxx để hỏi mua 25 viên ma túy “kẹo” và 02 “chỉ” ma túy Ketamine với giá 6.000.000 đồng và hẹn giao ma túy tại khu công nghiệp Vĩnh Hoàng, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Thành phố H. Sau đó, H đến đầu ngõ 255 Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Thành phố H nhờ một người đàn ông không quen biết chuyển 6.000.000 đồng đến số tài khoản Ngân hàng của đối tượng “Bờm” và đưa số tiền 6.000.000 đồng cho người đàn ông này. Tại khu công nghiệp Vĩnh Hoàng, H nhận ma túy tại gốc cây được đặt sẵn rồi mang về nhà. Lúc này, H liên hệ với L và thỏa thuận giao ma túy tại số 01 Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H. Khoảng 21h00 cùng ngày, H giấu số ma túy trên vào trong bỉm của cháu Nguyễn Duy A (con trai của H) và nhờ Nguyễn Hồng D là em họ điều khiển xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen biển kiểm soát 34B3-xxxxx chở đến số 01 Hàng Khoai. Tại đây, H lấy ma túy từ trong bỉm của cháu Duy A rồi đưa số ma túy này cho L. L nhận ma túy và mượn H chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen biển kiểm soát 34B3-xxxxx để đi bán ma túy và hẹn giao tiền sau. Còn H đứng đợi ở ngã ba Hoàng Khoai - Trần Nhật Duật cùng D và Vũ Nhật A. Lúc sau, lực lượng Công an kiểm tra và bắt giữ như đã nêu trên.

Nếu bán thành công, H được hưởng lời 7.500.000 đồng. Nguyễn Hồng D không biết, không liên quan đến việc mua bán ma túy của H. Chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 màu xanh gắn sim 0902096105 và chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám không sim là tài sản cá nhân của H, trong đó chiếc điện thoại di động Iphone 11 kèm sim sử dụng để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Như vậy, Vũ Nhật L cất giấu ba chất ma túy nhằm mục đích bán trái phép được quy định tại các điểm khác nhau quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự nên được quy đổi theo Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018, của Chính phủ như sau: 2,887 gam Ketamine (so với khối lượng tối thiểu chất ma túy quy định tại điểm e khoản 3Điều 251 Bộ luật hình sự) là 2,88% +9,946 gam MDMA, 0,965 gam Methamphetamine (so với khối lượng tối thiểu chất ma túy quy định tại điểm b khoản 3Điều 251 Bộ luật hình sự) là 36,37% = 39,25%, nên hành vi phạm tội của Vũ Nhật L được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Trần Thị H đã có hành vi bán trái phép 02 chất ma túy (2,887 gam Ketamine và 9,946 gam MDMA) cho Vũ Nhật L được quy định tại các điểm khác nhau quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự nên được quy đổi theo Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ như sau: 2,887 gam Ketamine (so với khối lượng tối thiểu chất ma túy quy định tại điểm e khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự) là 2,88% + 9,946 gam MDMA (so với khối lượng tối thiểu chất ma túy quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự) là 33,15% = 36,03%, nên hành vi phạm tội của Trần Thị H được quy định tại điểm p khoản 2 điều 251 của Bộ luật hình sự.

Những người liên quan là Vũ Nhật A và Nguyễn Hồng D khai phù hợp với lời khai của Vũ Nhật L, Trần Thị H. Xét thấy, A và D đều không liên quan đến việc mua bán trái phép ma túy của H và L nên Cơ quan điều tra không xử lý. Đối với chiếc điện thoại Redmi màu đen có sim số 0338618517, xét thấy Vũ Nhật A không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 24/8/2022 Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho Nhật A.

Đối với chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3- xxxxx L sử dụng. Quá trình điều tra xác minh xe máy đăng ký mang tên Hoàng Thu H, sinh năm 1985; trú tại: thôn U, xã M, huyện N, tỉnh Hải Dương. Tại Cơ quan điều tra, chị H khai do không còn nhu cầu sử dụng nên đã bán lại chiếc xe máy trên cho Nguyễn Hồng D từ năm 2021. Nguyễn Hồng D khai phù hợp với chị H về việc đã mua lại chiếc xe máy nêu trên và xuất trình giấy đăng ký xe máy (bản gốc). Xét thấy, Nguyễn Hồng D không biết Vũ Nhật L và Trần Thị H bán ma túy nên ngày 25/8/2022 Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy cho Nguyễn Hồng D. Sau khi nhận lại tài sản, D không có yêu cầu khác về dân sự.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu đen, biển kiểm soát 29B2- xxxx, quá trình điều tra xác minh xe máy đăng ký mang tên chính chủ Vũ Nhật A, A xuất trình được toàn bộ giấy tờ đăng ký liên quan đến chiếc xe trên. Xét thấy, Vũ Nhật A không liên quan đến hành vi phạm tội của Vũ Nhật L nên ngày 24/8/2022 Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy cho A. Sau khi đã nhận lại tài sản, Nhật A không có yêu cầu khác về dân sự.

Về đối tượng tên H1 mua ma túy của L và cho L ma túy, L khai không biết rõ căn cước của H1 và chỉ biết H1 sử dụng số thuê bao 096323xxxx. Cơ quan điều tra đã tiến hành rút list điện thoại nhưng không xác định được thông tin chủ đăng ký thuê bao nên không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Về đối tượng biệt danh “Bờm” bán ma túy cho H, H khai không biết rõ căn cước và chỉ biết Bờm sử dụng số thuê bao 03975xxxx. Cơ quan điều tra xác minh chủ đăng ký của số thuê bao nêu trên là Hồ Thị M, sinh năm 1975; trú tại: P106 C8 M, tổ 8 M, quận M, Thành phố H. Tại Cơ quan điều tra, chị M khai đã đăng ký số thuê bao nêu trên từ năm 2017 và bị mất từ năm 2019, hiện nay chị M không sử dụng và không liên quan đến số thuê bao nêu trên. Chị M khai không quen biết với Trần Thị H. Do vậy, Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Về đối tượng nam giới mà H nhờ chuyển khoản số tiền mua ma túy, H khai không biết rõ căn cước, số tài khoản và số điện thoại. Cơ quan điều tra dẫn giải và rà soát camera nhưng không xác định được nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh để làm rõ.

Tại Bản cáo trạng số 193/CT-VKS ngày 14/9/2022 Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Vũ Nhật L và Trần Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Vũ Nhật L và Trần Thị H khai nhận toàn bộ hành vi như đã khai tại Cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất động cơ và mục đích phạm tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của các bị cáo. Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Vũ Nhật L và Trần Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Vũ Nhật L với mức án từ 09 năm 06 tháng đến 10 năm tù. Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị H với mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

Tang vật: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ: Toàn bộ ma túy và một túi xách màu đỏ loại kéo khoá ngang và hai sim điện thoại.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước:

+ Một điện thoại di động kiêu dáng nhãn hiệu Iphone 11 màu xanh thu giữ của bị cáo H và một điện thoại di động kiều dáng nhãn hiệu Sam sung màu xanh thu giữ của bị cáo L, do liên quan đến hành vi phạm tội.

Trả bị cáo H: Một điện thoại di động kiêu dáng nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám, do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu được, lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ phù hợp nhau, hành vi của bị cáo thể hiện như sau:

Khoảng 17h00 ngày 28/4/2022 Vũ Nhật L nhận điện thoại từ số thuê bao 096323xxxx của một người bạn xã hội tên H1 hỏi mua 25 viên “thuốc lắc” và 02 chỉ “Ke” với giá 20.000.000 đồng. L đồng ý và dùng ứng dụng Messenger liên hệ với Trần Thị H hỏi mua số ma túy trên với giá 13.000.000 đồng.

Sau đó L nhờ em trai là Vũ Nhật A chở đi gặp H tại ngã ba Trần Nhật Duật - Hàng Khoai - Đồng Xuân, quận H, Thành phố H. Đến nơi A đứng đợi còn L gặp H ngồi trên xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx do Nguyễn Hồng D điểu khiển. H đưa ma túy cho L, L cất vào trong túi vải màu đỏ và mượn xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx thỏa thuận mang ma túy bán cho H1 rồi quay lại trả H 13.000.000 đồng tiền mua ma túy.

Đến khoảng 21h30’ L điều khiển xe máy trên dừng, đỗ trước cửa số nhà 01 Đồng Xuân thì bị Tổ công tác Công an phường Đồng Xuân kiểm tra. Khi bị kiểm tra L tự nguyện giao nộp toàn bộ số ma túy vừa mua của H và số ma túy “đá” ngày 28/4/2022 L được người bạn xã hội tên H1 cho, L đã cất vào lót giầy bên phải với mục đích để bán.

Ngoài ra, Công an còn thu giữ của L một túi xách vải màu đỏ, một điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu xanh và một xe máy trên.

Khoảng 119h30’ ngày 28/4/2022 H nhận được tin nhắn qua ứng dụng Messenger L hỏi mua ma túy gồm 25 viên “kẹo” và 02 chỉ “Ke”, thỏa thuận gốc bán 13.000.000 đồng và 500.000 đồng tiền vận chuyển. Sau đó, H liên lạc với một người bạn xã hội tên là Bờm có số điện thoại 039759xxxx để hỏi mua ma túy trên với giá 6.000.000 đồng và hẹn giao ma túy tại khu công nghiệp Vĩnh Hoàng, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Thành phố H. Sau đó, H nhờ một người đàn ông không quen biết chuyển 6.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng cho “Bờm” và đưa 6.000.000 đồng cho người đàn ông đó. Tại khu công nghiệp Vĩnh Hoàng, H nhận ma túy tại gốc cây rồi mang về nhà. Sau đó, H liên lạc với L thỏa thuận giao ma túy tại số 1 phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận H, Thành phố H.

Khoảng 21h00 cùng ngày, H giấu số ma túy trên vào bỉm của con trai H là cháu Nguyễn Duy A và nhờ anh Nguyễn Hồng D (là em họ H) điều khiển xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx chở đến số 1 phố Hàng Khoai và giao ma túy cho L. L nhận ma túy từ H và hẹn giao tiền sau. H đứng đợi L tại ngã ba Hàng Khoai - Trần Nhật Duật cùng D, Vũ Nhật A và cháu A. Một lúc sau H bị Công an kiểm tra, bắt giữ H tại số 1 phố Hàng Khoai.

Công an thu giữ của H 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphoen 11 màu xanh (có sim), 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám (không sim), 01 xe máy Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 29B2-xxxx.

Công an thu giữ của cháu Vũ Nhật A 01 điện thoại di động nhãn hiệu redmi màu đen, kèm sim.

Theo kết luận giám định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nylon là ma túy Methamphetamine, khối lượng: 0,965 gam; tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nylon đều là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng: 2,887 gam; 25 viên nén màu xanh bên trong 01 túi nylon đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 9,946 gam.

Như vậy, hành vi của Vũ Nhật L và Trần Thị H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 .

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước và trật tự an toàn xã hội. Hành vi của các bị cáo cần thiết phải truy tố và đưa ra xét xử.

Xét:

- Nhân thân bị cáo Vũ Nhật L: Có 02 tiền án chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này thuộc trường hợp Tái phạm.

- Nhân thân bị cáo Trần Thị H: Chưa có tiền án, tiền sự.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ những phân tích trên về hành vi phạm tội, hậu quả vụ án, nhân thân các bị cáo, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo để có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có việc làm nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu, tiêu hủy ma túy; túi xách vải màu đỏ - Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: Một điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 màu xanh (kèm sim) thu của bị cáo H và một điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu xanh (kèm sim) thu của bị cáo L, do các bị cáo sử dụng điện thoại để liên lạc mua bán ma túy.

- Trả bị cáo H: Một điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám (không sim), do không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-xxxxx, quá trình điều tra xác minh đăng ký xe máy tên chị Hoàng Thu H. Chị H khai đã bán xe máy cho anh Nguyễn Hồng D từ năm 2021. Anh D khai phù hợp với lời khai của chị H. Do anh D không biết việc mua bán ma túy giữa L và H nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe máy cho anh D. Sau khi nhận lại xe máy anh D không có yêu cầu gì khác nên Tòa án không xét.

- Chiếc xe máy Honda Wave màu đen, biển kiểm soát 29B2-xxxx, Cơ quan điều tra xác minh đăng ký xe máy mang tên anh Vũ Nhậ A. Do anh A không liên quan đến hành vi phạm tội của H nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe máy cho anh A. Sau khi nhận lại xe máy anh A không có yêu cầu gì khác nên Tòa án không xét.

Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại đi động nhãn hiệu Redmi màu đen, kèm sim cho anh A do không liên quan đến hành vi phạm tội của H.

Đối tượng tên H1 cho L ma túy (L khai không biết rõ căn cước), Cơ quan điều tra đã rút list điện thoại số thuê bao của H1 là 096323xxxx nhưng không xác định được thông tin chủ thuê bao nên không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Đối tượng bán ma túy cho H, Cơ quan điều tra cũng không xác minh làm rõ được nên không có căn cứ để xử lý.

Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: VŨ NHẬT L và TRẦN THỊ H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: Điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 Hình phạt:

Xử phạt: VŨ NHẬT L 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 28/4/2022.

3. Áp dụng: Điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015

Hình phạt:

Xử phạt: TRN THỊ H 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/4/2022.

4. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu, tiêu huỷ:

+ Một phong bì niêm phong dán kín các mép, trên các mép dán có chữ ký của đương sự Vũ Nhật L, giám định viên Trấn Ngọc Chinh, người chứng kiến Nguyễn Nhu Việt, cán bộ Công an phường Nguyễn Văn Nhì và dấu giáp lai của Công an phường Đồng Xuân bên trong có:

Một túi nylon trắng kẻ viên màu xanh chứa ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,965 gam (PC09 trích mấu 0,078 gam), còn lại 0,887 gam;

Một túi nylon chứa hai mươi lăm viên nén hình tròn màu xanh đều là ma túy loai MDMA, khối lượng 9,946 gam (PC09 thu mẫu 0,800 gam), còn lại 9,146 gam; Hai túi nylon màu trắng kẻ viền màu đỏ chứa ma túy loại Ketamine, khối lượng 2,887 gam (PCO9 thu mẫu 0,199 gam), còn lại 2,699 gam.

+ Một túi xách màu đỏ loại kéo khoá ngang, kích thước 50x30x30cm đã cũ, đã qua sử dụng.

+ Ba sim điện thoại đã cũ qua sử dụng.

b. Tịch thu, sung quỹ Nhà nước:

+ Một điện thoại di động kiêu dáng nhãn hiệu Iphone 11 màu xanh, số imei trong máy, đã cũ qua sử dụng, không rõ nguồn gốc xuất sứ.

+ Một điện thoại di động kiều dáng nhãn hiệu Sam sung màu xanh có số Imei 1: 354312130734941/01, số Imei 2: 35523562074940/01, đã cũ qua sử dụng, không rõ nguồn gốc xuất sứ.

Tại thời điểm bàn giao các máy không mở được để kiểm tra số Imei trong máy chất lượng, hiện trạng không rõ.

Trả bị cáo H: Một điện thoại di động kiêu dáng nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám, có số Imei: 353331078502574, số MEID: 35333107850257, đã cũ qua sử dụng, không rõ nguồn gốc xuất sứ.

(Tang vật giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 23/9/2022).

5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (thuốc lắc) số 200/2022/HS-ST

Số hiệu:200/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về