Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 617/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 617/2022/HS-ST NGÀY 27/12/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27/12/2022, tại điểm cầu trung tâm (phòng xử A5) trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 944/2022/TLST-HS, ngày 10/11/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6119/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

Bùi Khắc T, sinh năm 1997; Thường trú: Khu phố A (VK 2), phường P, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Tạm trú: đường B, Phường C, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Khắc A và bà Lâm Thị Kim H; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt giam từ ngày 20/02/2022 (Có mặt).

Người bào chữa: Ông Đặng Quốc H, luật sư của Công ty luật TNHH Đ thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Bùi Khắc T (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Trung H, sinh năm 1993 Địa chỉ: ấp T, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

* Tại điểm cầu trung tâm gồm có: Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và người bào chữa cho bị cáo * Tại điểm cầu thành phần gồm có:

1. Bị cáo:

- Bị cáo Bùi Khắc T, sinh năm 1997;

2. Người tham gia tố tụng khác:

- Ông Nguyễn Thanh H - Cán bộ trại tạm giam T30 - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

- Ông Bùi Lê Hoàng N - Cán bộ trại tạm giam T30- Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 20/02/2021, tổ công tác Đội 3, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC02), Công an Thành phố Hồ Chí Minh, bắt quả tang Bùi Khắc T có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán cho người khác, thu giữ tại vị trí móc treo bên trái dưới cổ xe gắn máy biển số 66B1-X do T điều khiển một túi nylon bên trong có một hộp nhựa màu trắng chứa 500 viên nén màu cam (kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 150,8948 gam, loại MDMA); thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone; một xe gắn máy biển số 66B1-X . Sau đó, tổ công tác đưa T về Công an Phường 7, quận Phú Nhuận tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang để điều tra xử lý.

Ngày 21/02/2022 Công an quận Phú Nhuận tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T tại số đường B, Phường C, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh không thu giữ vật chứng liên quan đến vụ án.

Số ma túy thu giữ trong vụ án đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 1219/KLGĐ-MT ngày 27/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Bùi Khắc T khai nhận: Thông qua bạn bè T quen biết với một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch), H bảo T đi giao ma túy cho khách, mỗi lần giao ma túy xong H trả tiền công cho T từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 20/02/2022, H điện thoại qua mạng xã hội bằng Telegram cho T, bảo T đến căn hộ C Trung tâm Thương mại dịch vụ Đ, Tô Hiến Thành, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh để nhận ma túy đi giao cho khách, T đồng ý. Sau đó T đi đến trước căn hộ số C Trung tâm TMDV Đ, Phường 14, Quận 10 gặp một người phụ nữ đeo khẩu trang (không rõ lai lịch) đưa cho T 01 gói nylon phía trong có hộp nhựa màu trắng chứa nhiều viên nén màu cam (thuốc lắc) không rõ khối lượng. Khi T nhận được ma túy; H yêu cầu T đem ma túy đến khu vực quận Bình Tân để giao cho khách và nhận tiền công, do T đi nhầm đường nên đi đến khu vực quận Phú Nhuận thì bị tổ công tác Đội 3, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC02), Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Phú Nhuận tiến hành khám xét căn hộ C Trung tâm Thương mại dịch vụ Đ Tô Hiến Thành, Phường 14, Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tại thời điểm tiến hành thực hiện lệnh khám xét thì đại diện Ban quản lý không liên lạc được với Lê Thị Hồng N (là người sử dụng căn hộ) và không có chìa khóa phụ của căn hộ. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Phú Nhuận không thực hiện được lệnh khám xét đối với căn hộ nêu trên.

Kết quả xác minh, Lương Chí H là đại diện Ban quản lý chung cư cho biết: Ngày 10/01/2022, anh H làm hợp đồng cho thuê căn hộ C Trung tâm Thương mai dịch vụ Đ Tô Hiến Thành, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh với chị Lê Thị Hồng N (Sinh năm 1999, nơi thường trú Bùi Thị X, Phường A, quận Tân Bình). Khi ký hợp đồng xong ngoài chị N ở căn hộ nêu trên còn có một người phụ nữ (không rõ lai lịch) ở cùng chị N. Tuy nhiên vào ngày 20/02/2022 chị N không có mặt tại căn hộ nêu trên, đến ngày 18/3/2022, anh H liên lạc với chị N, hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thuê căn hộ đã ký trước đó. Ngày 20/3/2022 chị N đến căn hộ C Trung tâm Thương mại dịch vụ Đ, Tô Hiến Thành, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đồ và bàn giao căn hộ cho anh H. Hiện tại, không rõ Lê Thị Hồng N cư trú tại đâu nên Cơ quan điều tra vẫn chưa làm việc được với chị N để làm rõ mức độ liên quan vụ án.

Cơ quan điều tra đã thu thập ảnh của Lê Thị Hồng N tiến hành cho Bùi Khắc Tnhận dạng, T xác định N không phải là người phụ nữ đeo khẩu trang giao ma túy cho T vào ngày 20/02/2022. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa có cơ sở để truy xét người phụ nữ đã giao ma túy cho T để xử lý.

Đối với người đàn ông tên H do T khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ hành vi để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 544/CTr-VKSTPHCM-P1 ngày 28/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Bùi Khắc Tvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận T bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá những chứng cứ xác định hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Bùi Khắc T 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng.

Và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Đặng Quốc H bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo T giao nhận ma túy giúp cho H để nhận tiền công nên hành vi của bị cáo có dấu hiệu của tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Ngoài ra, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, còn tích cực hỗ trợ Cơ quan điều tra làm sáng tỏ vụ án để áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt với tội danh “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quan điểm truy tố.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, T diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị cáo và người bào chữa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Căn cứ lời khai của bị cáo nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định chất ma túy cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có cơ sở xác định:

Bị cáo Bùi Khắc T có hành vi mua bán ma túy cho đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch) để kiếm lời. Đến ngày 20/02/2022, khi đang đem ma túy để bán cho người khác thì bị bắt quả tang, thu giữ 500 viên nén màu cam, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng 150,8948 gam, loại MDMA.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với ý kiến của luật sư cho rằng bị cáo có dấu hiệu phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, xét lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra xuyên suốt trong vụ án đều thừa nhận việc bị cáo biết H mua bán ma túy và đồng ý giúp H bán ma túy để hưởng tiền công đủ cơ sở xác định ý thức của bị cáo trong việc mua bán ma túy, do đó, không có cơ sở chấp nhận lời bào chữa của luật sư.

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự xã hội tại địa phương, làm nguy cơ gia tăng các tệ nạn xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng vì tư lợi vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán ma túy, là hành vi pháp luật cấm, nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm để đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với người đàn ông tên H và người phụ nữ đeo khẩu trang giao ma túy cho bị cáo, do bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ hành vi để xử lý.

[2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn, khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự nên áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với ý kiến của luật sư đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy tình tiết “người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án”, theo quy định là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Bị cáo T không thuộc trường hợp được quy định như trên, do vậy, không chấp nhận yêu cầu này của luật sư.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ khác thể hiện bị cáo có thu lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 247, có chữ ký ghi tên giám định viên Phạm Huỳnh Minh Tr, và Điều tra viên Vũ Đình H bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định, mã số NP1/036BB/2023, là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) túi nylon màu trắng không chứa gì, mã số LT1/036BB/2023; 01 (một) hủ nhựa hình trụ trong suốt, mã số LT2/036BB/2023, là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) cái điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, không có imei ở khay sim), mã số DT/036BB/2023, là điện thoại của bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) chiếc xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Số loại: Wave Alpha; Dung tích xilanh 109,1; BS: 66B1-X; SK: RLHJA3902HY786581; SM: JA39E-0766757 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), mã số XMAY/036BB/2023, bị cáo khai mua ở tiệm cầm đồ nhưng không có gì chứng minh. Xe trên do ông Trần Trung H đứng tên chủ sở hữu. Hiện ông H không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ nên chưa lấy được lời khai. Bị cáo sử dụng xe này để làm phương tiện đi lại và mua bán trái phép chất ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy cần đăng thông tin chiếc xe trên và 01 tờ đăng ký xe số 038912, mã số DKX/036BB/2023 trên phương tiện thông tin đại chúng trong vòng 06 tháng để tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe trên. Nếu hết thời hạn trên mà chủ sở hữu không đến nhận xe thì tịch thu chiếc xe trên nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Bùi Khắc T 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2022.

[2] Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 247, có chữ ký ghi tên giám định viên Phạm Huỳnh Minh T, và Điều tra viên Vũ Đình H bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định, mã số NP1/036BB/2023 - 01 (một) túi nylon màu trắng không chứa gì, mã số LT1/036BB/2023;

- 01 (một) hủ nhựa hình trụ trong suốt, mã số LT2/036BB/2023

* Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) cái điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, không có imei ở khay sim), mã số DT/036BB/2023;

* Đăng thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với: 01 (một) chiếc xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Số loại: Wave Alpha; Dung tích xilanh 109,1; BS: 66B1-X; SK: RLHJA3902HY786581; SM: JA39E-0766757 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), mã số XMAY/036BB/2023 và 01 tờ đăng ký xe số 038912, mã số DKX/036BB/2023, trong thời gian 06 tháng. Nếu hết thời hạn trên mà chủ sở hữu không đến nhận xe thì tịch thu chiếc xe trên nộp ngân sách Nhà nước.

Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2023/036 ngày 03/11/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 617/2022/HS-ST

Số hiệu:617/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về