Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 34/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án huyện Gia Lâm, thành phố H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2022/TLST - HS ngày 17/02/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 17/02/2022 đối với bị cáo:

Đặng Đình H, sinh năm: 1977; đăng ký hộ khẩu T trú: Tổ 3, phường C, quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Đình H và bà Nguyễn Thị H; vợ là Lê Thị H và có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Bản án số 73/2006/HSST, ngày 04/8/2006 của Toà án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt 12 tháng 18 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo H chưa thực hiện khoản bồi T cho chị Nguyễn Thị Khanh số tiền 23.121.000 đồng; tiền sự: Không; nhân thân: Tháng 10/1993, đi trại giáo dưỡng 12 tháng; tháng 04/2001, Công an xã Bát Tràng, Gia Lâm xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; tháng 07/2004, Công an phường Cự Khối, Long Bien xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Bản án số 275/2009/HSST, ngày 20/11/2009 của Toà án nhân dân quận L xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã xoá án tích); bắt quả tang, tạm giữ ngày 16/6/2021 đến ngày 25/6/2021 chuyển tạm giam. Ngày 12/11/2021 huỷ bỏ biện pháp tạm giam áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. “Có mặt”.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Lê Thị H (là vợ của bị cáo), sinh năm 1976; nơi cư trú: Tổ 3, phường C, quận L, thành phố H. “Có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Quang Đạo là trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội. “Vắng mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1971;

nơi cư trú: Khu T, phường Văn An, thành phố C, tỉnh H. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10h ngày 16/6/2021, H đang ở nhà tại tổ 3, C, L, Hà Nội thì nhận được điện thoại từ số 0982279600 của Nguyễn Văn T hỏi mua 500.000 đồng tiền ma tuý Heroine, H đồng ý. H và T hẹn gặp tại trạm bơm Thuận Tốn, Đa Tốn để giao dịch. H điều khiển xe máy Honda Wave BKS 29K1-713.25 đi đến Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh mua 700.000 đồng ma tuý của một người đàn ông đứng ở ven đường và nhận lại 01 gói nilông màu trắng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng và 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng vỏ bao thuốc lá màu vàng bên trong đều chứa ma tuý Heroine. H cầm ma tuý bên trong lòng bàn tay phải và điều khiển xe đi đến điểm hẹn với T. Khi đến trạm bơm Thuận Tốn, Đa Tốn, T đưa cho H số tiền 190.000 đồng, khi T đang chuẩn bị đưa thêm tiền thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ của Đặng Đình H: 01 gói nilông màu trắng bên trong có 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng và 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng vỏ bao thuốc lá màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 xe máy Honda Wave BKS 29K1-713.25 và 01 đăng ký xe; 01 điện thoại Mobell màu hồng, dạng phím bấm, đã qua sử dụng, số tiền 190.000 đồng. Thu giữ của T: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia, màu xanh, dạng phím bấm, số tiền 300.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 4991/KLGĐ-PC09 ngày 22/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu vàng là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,278gam. Chất bột màu trắng bên trong 01 gói vỏ bao thuốc lá màu vàng là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,304gam”.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSGL ngày 10/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Đặng Đình H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, q khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Đình H từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ những ngày tạm giữ, tạm giam (từ ngày 16/6/2021 đến ngày 12/11/2021).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo;

Tch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 490.000đồng; 02 chiếc điện thoại; 01 chiếc xe máy và giấy chứng nhận đăng ký.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan Điều tra, bị cáo đã ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của người đại diện hợp pháp: Đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo hạn chế nhận thức để sớm trở về với gia đình.

Ý kiến của người bào chữa: Đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo vì bị cáo là người hạn chế nhận thức và điều khiển hành vi, bố mẹ già, vợ ốm đau T xuyên; thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] . Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Gia Lâm, thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo, người đại hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Hồi 14 giờ 10 phút ngày 16/6/2021, tại khu vực trạm bơm nước Thuận Tốn thuộc địa phận xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố H, Đặng Đình H đang có hành vi bán trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng là 0,582 gam cho Nguyễn Văn T thì bị Cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Vì vậy, bị cáo phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng kinh tế, sức khỏe và chất lượng giống nòi. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bị cáo ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời góp phần đấu tranh, phòng và chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy.

Về nhân thân: Bị cáo có nhiều tiền sự theo quy định của pháp luật đã được xóa; về tiền án: Bản án số 73/2006/HSST, ngày 04/8/2006 của Toà án nhân dân huyện Gia Lâm xử phạt 12 tháng 18 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản, bản án này chưa được xóa án tích do chưa thực hiện việc bồi T nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 bộ luật hình sự. Bản án số 275/2009/HSST, ngày 20/11/2009 của Toà án nhân dân quận L xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã xoá án tích). Như vậy, bị cáo có nhân thân xấu đã bị pháp luật giáo dục cải tạo nhưng không chịu rèn luyện cải tạo mình. Vì vậy, cần cách ly bị cáo một thời gian nhất định để cải tạo bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nhất là tội phạm về ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Quá trình điều tra xác định bị cáo H có biểu hiện bị tâm thần, ngày 19/8/2021, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với H. Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần của Viện pháp y tâm thần trung ương ngày 07/12/2021 kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Đặng Đình H có hội chứng nghiện nhiều loại ma tuý/ Chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F19.2/F70. Tại thời điểm giám định bị cáo có hội chứng nghiện nhiều loại ma tuý hiện đang cai trong môi trường được bảo vệ/ người bệnh chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F19.2/F70. Tại các thời điểm trên bị cáo hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Về vật chứng:

- Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 xe máy Honda Wave BKS 29K1-713.25 và 01 đăng ký xe máy mang tên bị cáo, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của bị cáo H dùng làm phương tiện đi mua bán ma tuý nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại Mobell màu hồng, dạng phím bấm, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo H làm phương tiện liên lạc để bán ma tuý. Số tiền 190.000 đồng là tiền H bán ma tuý cho T; đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia, màu xanh, dạng phím bấm là tài sản của T dùng làm phương tiện liên lạc mua ma tuý, số tiền 300.000 đồng là tiền dùng để mua ma tuý. Do đó, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[4]. Các vấn đề khác:

- Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho H, hiện không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý;

- Đối với Nguyễn Văn T là người mua ma túy của H mục đích để sử dụng, nhưng chưa mua được, qua xét nghiệm nước tiểu đối với T âm tính với chất ma túy. Do vậy, Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ xử lý đối với Nguyễn Văn T.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Đình H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, q khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Đình H 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ những ngày tạm giữ, tạm giam (từ ngày 16/6/2021 đến ngày 12/11/2021).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì. Trong phong bì có: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine có khối lượng:

0,265gam giám định (đã lấy mẫu 0,013 gam) và 01 gói vỏ bao thuốc lá màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine có khối lượng: 0,276gam (đã lấy mẫu 0,028gam) do Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hà Nội hoàn lại;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 xe máy kiểu dáng Wave màu xanh, BKS:

29K1-713.25; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS: 29K1-713.25; 01 điện thoại kiểu dáng MOBELL, màu hồng, bên trong lắp sim; 01 điện thoại kiểu dáng NOKIA, màu xanh, bên trong lắp sim; số tiền 490.000 đồng.

Số vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 18/02/2022 giữa Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm và biên lai thu tiền số 0054890 ngày 22/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban T vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày bản án được niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 34/2022/HS-ST

Số hiệu:34/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về