Bản án 254/2017/HSPT về tội mua bán trái phép, chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 254/2017/HSPT NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 208/2017/HSPT ngày 18 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn T;

Do  có  kháng  cáo  của  bị  cáo  đối  với  Bản  án  hình  sự  sơ  thẩm  số: 61/2017/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện L.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 tại tỉnh Đồng Nai; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa: 5/12; con ông Nguyễn Văn D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1951; có vợ tên Nguyễn Thị Hạnh Đ, sinh năm 1989; có 02 người con, lớn sinh năm 2006 và nhỏ sinh năm 2009; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30 tháng 12 năm 2016 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

- Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ ngày 30 tháng 12 năm 2016, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an huyện L kết hợp với Công an xã L kiểm tra nhà trọ của bà Nguyễn Thị H tại: Ấp B, xã L, huyện L, phát hiện Nguyễn Văn T, Lê Trung H và Nguyễn Thành P vừa sử dụng ma túy tổng hợp cùng dụng cụ sử dụng ma túy. Kiểm tra trong người của T phát hiện 11 (mười một) túi nilon màu trắng, được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể (nghi là ma túy tổng hợp), 01 (một) điện thoại Nokia màu vàng đen của T, 01 (một) bình thủy tinh tự chế dùng để sử dụng ma túy.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016, T bắt đầu mua ma túy về sử dụng và bán lại cho những người nghiện, thu lợi để sử dụng ma túy. Vào lúc 20 giờ ngày 29 tháng 12 năm 2016, T đến khu vực gần ngã tư xã L mua ma túy của đối tượng tên H1 (không rõ lai lịch) 12  (mười  hai)  túi  ma  túy tổng  hợp  với  giá  1.000.000  đồng  (một  triệu  đồng). Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 30 tháng 12 năm 2016, T đến phòng trọ của Nguyễn Thành P thì có Lê Trung H là bạn, cùng đến chơi và mua của T 01 (một) túi ma túy tổng hợp với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), hẹn cuối tuần H sẽ trả tiền; T liền bán cho H 01 (một) túi ma túy và H lấy dụng cụ sử dụng ma túy của P ra đốt hút. Khi vừa hút xong thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ của T 11 (mười một) túi ma túy còn lại như đã nêu trên.

Ngoài ra, qua điều tra đã xác định: Trước đó, không nhớ ngày, tháng, T đã bán ma túy tổng hợp cho Lê Trung H 03 (ba) lần, mỗi lần 01 (một) túi với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và bán cho Nguyễn Thành P 05 (năm) lần, mỗi lần 01 (một) túi với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Số tiền thu lợi, T dùng mua ma túy để sử dụng nên không tính được tiền thu lợi bất chính.

Tại bản Kết luận giám định số: 174/PC54-GĐMT ngày 21 tháng 5 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có trọng lượng 0,8183 gam, có Methamphetamine, hàm lượng 54,27% (0,444 gam).

Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) gói do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai niêm phong số: 174/PC54-GĐMT; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng đen và 01 (một) bình thủy tinh tự chế dùng để sử dụng ma túy.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKS ngày 10 tháng 4 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 2, Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 61/2017/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2017 và Quyết định đính chính, bổ sung số: 23/2017/HSST-QĐ ngày 23 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 194 và Điểm p, Khoản 1, Điều 46 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 30 tháng 12 năm 2016. Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 12 tháng 7 năm 2017, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án, đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội, thừa nhận mình là người thực hiện hành vi nhiều lần mua ma túy về sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác; thu lợi để sử dụng ma túy. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Hành vi của bị cáo T đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, Khoản 2, Điều 194 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Bản án hình sự sơ thẩm đã xem xét và đánh giá toàn bộ vụ án, nhân thân và áp dụng tình tiết giảm nhẹ của bị cáo T, quyết định xử phạt bị cáo 09 (chín) năm tù là thỏa đáng và phù hợp. Do đó, kháng cáo của bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt không có căn cứ chấp nhận.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Đối với phần trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 194; Điểm p, Khoản 1, Điều 46 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 30 tháng 12 năm 2016.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số: 174/PC54-GĐMT. Vật chứng này đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01 tháng 9 năm 2017.

2.2. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bình thủy tinh tự chế đã qua sử dụng.

2.3. Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia.

Vật chứng được nêu tại mục 2.2 và 2.3 nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12 tháng 3 năm 2017.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Quyết định của bản án sơ thẩm về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 254/2017/HSPT về tội mua bán trái phép, chất ma túy

Số hiệu:254/2017/HSPT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về