Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 282/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 282/2022/HS-ST NGÀY 25/10/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/10/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 275/2022/TLST-HS, ngày 05 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 287/2022/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Quốc C, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2004, tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi ĐKHKTT: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Con ông Trịnh Ngọc Đ (đã chết); Con bà Võ Thị Thùy T, sinh năm: 1967. Địa chỉ: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo có vợ Huỳnh Thị Trà M, sinh năm 2004 (không đăng ký kết hôn) có 01 con chung là Trịnh Huỳnh Tú L, sinh năm 2021.

Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 01/7/2022 cho đến nay. (có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Võ Thị Thùy T, sinh năm: 1967 (vắng mặt); Địa chỉ: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Đình V, sinh năm: 1965 (vắng mặt); Địa chỉ: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Nguyễn Mạnh T, sinh năm: 1961 (vắng mặt); Địa chỉ: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Quốc C là đối tượng nghiện ma túy đá (Methamphetamine). Do không có việc làm ổn định và cần tiền tiêu xài nên C nảy sinh ý định mua ma tuý để bán kiếm lời. Ngày 20/6/2022, C mua 800.000 đồng ma túy đá của một người nam giới tên Q ở T5, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, C đem ma tuý về nhà tại T4, xã H, thành phố B và phân thành 06 gói ma túy nhỏ để bán. Ngày 01/7/2022, một người nam giới tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0925.538.X gọi đến số 0917.008.X gắn trong điện thoại hiệu Iphone của C hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì C đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực đường N, xã H, thành phố B. Khoảng 15 giờ cùng ngày, C mang theo 02 gói ma túy đá rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 47B2- X đi bán ma túy. Khi đi đến khu vực trước số nhà 378 đường N, xã H, thành phố B, C bị Công an thành phố B phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 02 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định của pháp luật).

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiến hành khám xét nhà của C tại địa chỉ T4, xã H, thành phố B, thu giữ 04 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng tại khu vực phòng bếp (đã được niêm phong theo quy định của pháp luật).

Tại kết luận giám định số 635/KL-KTHS ngày 06/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Phong bì ký hiệu M1: Chất rắn dạng tinh thể bên trong 02 (hai) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1640 gam, loại Methamphetamine.

Phong bì ký hiệu M2: Chất rắn dạng tinh thể bên trong 04 (bốn) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,3842 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: Phong bì ký hiệu M1: 0,1448 gam Methamphetamine; Phong bì ký hiệu M2: 0,3279 gam Methamphetamine đã được niêm phong.

Tại bản cáo trạng số: 290/CT-VKS ngày 05/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trịnh Quốc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trịnh Quốc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như nội dung bản Cáo trạng số: 290/CT- VKS ngày 05/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Quốc C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Quốc C mức án từ 02 năm đến 02 năm 6 tháng tù.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,1448 gam ma túy Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M1 và 0,3279 gam Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M2 còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 635/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Đề nghị tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu đen, gắn sim số 0917.008.X, số Imei 990002816238834 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc xe mô tô hiệu Vario, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2- X mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội là tài sản của bà Võ Thị Thùy T, ngày 01/7/2022, bà T cho bị cáo C mượn xe nhưng không biết việc C sử dụng xe đi mua ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại tài sản cho bà T quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Quốc C đã khai nhận là người nghiện ma túy, loại Methamphetamine, để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, nên Trịnh Quốc C nảy sinh ý định đi mua ma túy về bán lại cho các con nghiện để kiếm lời nên vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/7/2022, tại khu vực trước số nhà 378 đường N, xã H, thành phố B. Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B phát hiện, bắt quả tang Trịnh Quốc C có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ 0,1640 gam ma túy loại Methamphetamine. Tiến hành khám xét tại nhà của C, tại địa chỉ T4, xã H, thành phố B, thu giữ 0,3842 gam, loại Methamphetamine là ma túy C cất giấu để bán kiếm lời.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Quốc C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Bị cáo Trịnh Quốc C đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự trị an trong xã hội. Bị cáo nhận thức được Methamphetamine là chất ma túy gây nghiện nặng làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội... Hiện nay, loại tội phạm về ma túy đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên, tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy thật nghiêm khắc. Do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã có hành vi mua bán chất Methamphetamine, thu giữ trên người bị cáo 0,1640 gam ma túy, loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M1 và thu giữ tại nhà bị cáo 0,3842 gam ma túy, loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M2. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét về nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo Trịnh Quốc C là người có nhân thân tốt, khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Ngoài ra tại thời điểm xét xử bị cáo đã đủ tuổi thành niên, tuy nhiên khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên cần áp dụng Điều 101 Bộ luật hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra cùng nhân thân của bị cáo, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội về sau.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp nên cần chấp nhận.

Ngoài ra đối với nguồn ma túy, bị cáo khai mua của một người tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực T5, xã H, thành phố B có người nam giới tên thường gọi là Q có tên thật là Bùi Quang H, sinh ngày 14/02/2002, trú tại địa chỉ trên. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho nhận dạng bằng ảnh, kết quả bị cáo C xác định ảnh người bán ma túy cho C là Bùi Quang H. Tuy nhiên, H hiện không có mặt tại địa phương nơi cư trú nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý nên tách hành vi của Bùi Quang H ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với người nam giới tên H có hành vi mua ma túy của C, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của đối tượng trên nên tách hành vi của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo C. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Đối với bà Võ Thị Thùy T là người quản lý, sử dụng căn nhà nơi bị cáo C cất giấu ma túy, bà T không biết, không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội của C nên không đề cập xử lý là phù hợp.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy 0,1448 gam ma túy loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M1 và 0,3279 gam ma túy loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M2 còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 635/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu đen, gắn sim số 0917.008.X, số Imei 990002816238834 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản là 01 chiếc xe mô tô hiệu Vario, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2- X mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội là tài sản của bà Võ Thị Thùy T, sinh năm 1967: HKTT: T4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 01/7/2022, bà T cho bị cáo C mượn xe nhưng không biết việc C sử dụng xe đi mua ma túy nên cần trả cho bà T quản lý, sử dụng là phù hợp.

[4] Về án phí: Bị cáo Trịnh Quốc C phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Quốc C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Quốc C 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/7/2022.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,1448 gam ma túy, loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M1 và 0,3279 gam ma túy, loại Methamphetamine trong phong bì ký hiệu M2 còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 635/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu đen, gắn sim số 0917.008.X, số Imei 990002816238834 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

(Về vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/10/2022, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản là 01 chiếc xe mô tô hiệu Vario, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2- X là tài sản của bà T, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo C cho bà Võ Thị Thùy T nhận quản lý, sử dụng.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trịnh Quốc C phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 282/2022/HS-ST

Số hiệu:282/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về