Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 06/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2023/HSST ngày 13/02/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXXST-HS ngày 10/3/2023; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 01/2023/HSST-QĐ, ngày 24 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/ Đinh Dũng A, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2003; HKTT: Xóm Mơn, xã Văn L, huyện Tân S, tỉnh Phú Thọ; Nơi tạm trú: Thôn Cần Th, xã Nga H, huyện N, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không xác định; con bà: Đinh Thị L, sinh năm 1977; chưa có vợ, con.

Tiền án; tiền sự: không.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh TH; Có mặt tại phiên tòa.

2/ Vũ Ng D, sinh ngày 27 tháng 02 năm 1992; HKTT: Thôn Vườn Hoa, xã Ninh P, thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Hồng Ch, sinh năm 1959; con bà: Bùi Thị M, sinh năm 1964; có vợ: Phạm Thị Thanh H; có 02 con: lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2021.

Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 22/3/2022, bị Công an phường Đông Thành, thành phố Ninh B xử phạt hành chính về hành vi cố ý gây thương tích.

Nhân thân:

- Ngày 27/02/2012, bị TAND thành phố Ninh B xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong ngày 27/11/2012;

- Ngày 18/12/2015, bị TAND thành phố Ninh B xử phạt 09 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, đã chấp hành xong ngày 23/02/2016;

- Ngày 07/9/2017, bị TAND thành phố Ninh B xử phạt 30 tháng tù và 05 triệu đồng về tội “Mua bán trái phép chất ma thúy”, đã chấp hành xong ngày 19/5/2019.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh TH; Có mặt tại phiên tòa.

3/ Đỗ Văn Th - Sinh ngày 20 tháng 12 năm 2003; HKTT: Thôn 8, xã Nga T, huyện N, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn L, sinh năm 1975; con bà: Lê Thị M, sinh năm 1974; chưa có vợ, con.

Tiền án; tiền sự: không.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh TH; Có mặt tại phiên tòa.

4/ Phạm Văn C, sinh ngày 19 tháng 10 năm 2003; HKTT: Thôn Ngoại 2, xã Nga G, huyện N, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Y, sinh năm 1975; con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1980; chưa có vợ, con.

Tiền án; tiền sự: không.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh TH; Có mặt tại phiên tòa.

5/ Nguyễn Thị Ánh X, sinh ngày 17 tháng 8 năm 2005; Nơi sinh: Thành phố Phan Th, tỉnh Bình Thuận; HKTT: Thôn Bạch Trưng, xã Nga B, huyện N, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1974; con bà: Phan Thị Minh X, sinh năm 1979; chưa có chồng, con.

Tiền án; tiền sự: không.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH; Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Ánh X:

Bà Nguyễn Thị Nữ H - Trợ giúp viên pháp lý; địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh TH, số 32, đại Lộ Lê L, phường Điện B, thành phố TH; (có mặt).

(Quyết định về việc cử trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng, số 313/QĐ- TGPL, ngày 13/9/2022).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn 6, xã Nga T, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

* Người làm chứng:

1/ Anh Mai Đức Th, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Tri Thiện 2, xã Nga Th, huyện N, tỉnh TH; vắng mặt.

2/ Anh Mai Văn Qu, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 4, xã Nga Thanh, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

3/ Anh Phạm Văn T, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 7, xã Nga Liên, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

4/ Chị Hà Thị Ng, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Hanh Gia, xã Nga G, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

5/ Chị Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn Vườn Hoa, xã Ninh P, Thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B, vắng mặt.

6/ Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn 6, xã Nga Liên, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

7/ Anh Mai Đình Đ, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Ngũ Kiên, xã Nga Th, huyện N, tỉnh TH, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 06/9/2022, Công an huyện N nhận được thông tin tại cơ sở kinh doanh karaoke Gia L, thuộc tiểu khu Yên Hh 2, thị trấn N, các đối tượng trong phòng hát có biểu hiện mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan CSĐT phối hợp với Công an thị trấn N tiến hành kiểm tra, xác minh tại phòng 602, phát hiện 04 thanh niên đang hát, gồm: Mai Đình Đ, sinh năm 1993, ở thôn Ngũ Kiên, xã Nga Th, huyện N; Mai Đức Th, sinh năm 1995, ở thôn Tri Thiện 2, xã Nga Th, huyện N; Vi Thị Hồng D, sinh năm 2007, ở xã X Bình, huyện Như X, tỉnh TH; Hoàng Thị Thanh H1, sinh năm 2004, ở xã Trường Trung, huyện Nông C, tỉnh TH. Trong đó, Mai Đình Đ có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên phải, phía trước của Mai Đình Đ có 01 túi nilon trong suốt, kích thước (2x2) cm, bên trong túi nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể. Đ khai nhận chất màu trắng bên trong túi nilon thu giữ trên là ma túy của Đ nhờ Nguyễn Văn D, sinh năm 1999, địa chỉ: thôn 6, xã Nga T, huyện N, là nhân viên phục vụ của karaoke Gia L mua hộ khi đến phòng hát, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Cơ quan CSĐT cũng đã tiến hành kiểm tra phòng hát VIP 9999, phát hiện có 06 nam nữ thanh niên đang hát, gồm: Nguyễn Bá T, sinh năm 1991, ở thôn 6, xã Nga Liên, huyện N; Mai Văn Qu, sinh năm 1986, ở thôn 4, xã Nga Thanh, huyện N; Phạm Văn T, sinh năm 1989, ở thôn 7, xã Nga Liên, huyện N; Nguyễn Thị Ánh X, sinh năm 2005, ở thôn Bạch Trưng, xã Nga B; Nguyễn Hà V, sinh năm 2006, ở Cửa Đ, quận Hoàn K, Tp Hà Nội; Hoàng Thị M Cửa ĐH, sinh năm 2002, ở xã Đông Đ, huyện Phú L, tỉnh Thái Nguyên.

Cơ quan CSĐT phát hiện tại phòng VIP 9999, thu giữ trong ổ công tắc điện bên trái (hướng từ cửa phòng hát đi vào), cách sàn phòng hát 60cm có 01 túi nilon trong suốt, kích thước (5x5)cm. Trong túi nilon là gói giấy trắng, dạng giấy vệ sinh vo tròn, trong gói giấy có 01 túi nilon trắng, kích thước (1x1)cm chứa chất màu trắng dạng tinh thể. Túi nilon trên, Nguyễn Bá T khai nhận chất màu trắng bên trong túi nilon là ma túy của mình. T mua số ma túy nêu trên của Nguyễn Thị Ánh X nhằm khi đến phòng hát, mục đích sử dụng cho bản thân.

Ngoài ra, Công an huyện N còn tạm giữ các đồ vật, tài sản gồm: 01 đầu thu camera nhãn hiệu Hik Vision màu đen, trắng của cơ sở Gia L và số tiền 6.400.000đ (sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) chị Hà Thị Ng là nhân viên thu ngân tự nguyện giao nộp.

Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ tại hai phòng hát nêu trên, qua đấu tranh với các đối tượng đã xác định số ma túy đó đều là của Nguyễn Thị Ánh X. X mua của Đinh Dũng A rồi bán lại cho Nguyễn Văn D và Nguyễn Bá T để hưởng tiền chênh lệch.

Số ma túy đó được Đinh Dũng A bàn bạc, rủ Phạm Văn C đi đến xã Ninh P, thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B để mua ma túy của Đỗ Văn Th và Vũ Ng D vào ngày 04/9/2022. Mua được ma túy, Dũng A và C đem về chia nhỏ ra để bán cho khách có nhu cầu. Ngày 06/9/2022, Dũng A đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho X để X bán lại cho D và T.

Cơ quan CSĐT tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của các đối tượng sau:

- Ngày 06/9/2022, khám xét nơi ở của Đinh Dũng A tại cơ sở karaoke Phương N tại thôn Cần Th, xã Nga H, huyện N: thu giữ 05 vỏ túi nilon trong suốt. Dũng A sử dụng các vỏ túi nilon này để đựng, chia nhỏ ma túy.

- Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn C ở thôn Ngoại 2, xã Nga G, huyện N, nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

- Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn D tại cơ sở Gia L. Kết quả không phát hiện, thu giữ gì.

- Ngày 10/9/2022, khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Văn Th tại thôn Vĩnh Tiến, xã Ninh P, thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B, phát hiện, thu giữ: tại ngăn tủ bên trái (theo hướng nhìn vào tủ) của tủ vải màu xanh nhạt đặt tại góc trong bên trái (theo hướng từ cửa chính đi vào) trong phòng khách có 01 túi nilon trong suốt, kích thước (10x5)cm, bên trong chứa 02 (hai) viên nén màu hồng, hình tròn; tại gầm bàn trang điểm trong phòng ngủ có 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 20cm, trên đĩa có chất bột màu trắng và 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đ được cố định bằng 03 vỏ đầu lọc điều thuốc lá.

- Ngày 10/9/2022, khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Ng D tại thôn Vĩnh Tiến, xã Ninh P, thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B, phát hiện, thu giữ: tại ngăn tủ để đồ màu tím trong phòng ngủ có 01 cuốn sổ bìa màu xanh, có khuy bấm, bên trong có 01 túi nilon trong suốt, kích thước 4x5cm, bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể; dưới gầm giường trong phòng ngủ có 01 đĩa sứ màu trắng, đường kính 20cm, trên đĩa có 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đ, được cố định bằng 03 dây nịt; 01 thẻ cứng màu xám có in dòng chữ “PHAM T THANH H”.

Tất cả đều bám dính chất bột màu trắng; trong hộp để đồ (hộp phía trước) của xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios màu trắng, BKS 35A-X có 01 viên nén màu vàng nhạt.

Nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bản thân là vi phạm pháp luật, nên các đối tượng đã đầu thú tại cơ quan cảnh sát điều tra, cụ thể:

- 16h00’ ngày 06/9/2022, Đinh Dũng A đã đầu thú với Cơ quan CSĐT và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, gắn sim số 0397.640.X.

- 16h35’ ngày 06/9/2022, Nguyễn Văn D đã đầu thú với Cơ quan CSĐT và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, gắn sim số 0961.581.X.

- 17h 20’ ngày 06/9/2022, Nguyễn Thị Ánh X đầu thú với Cơ quan CSĐT và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, gắn sim số 0332.878.X.

- 19h00’ ngày 06/9/2022, Phạm Văn C đã đầu thú với Cơ quan CSĐT đồng thời tự nguyện giao nộp 40 viên MDMA, 29 túi nilon chứa ketamine, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 và 01 xe mô tô Exciter màu trắng xanh, không gắn BKS. Lúc 15h00’ ngày 10/9/2022, Đỗ Văn Th đã đầu thú với Cơ quan CSĐT đồng thời tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, gắn sim số 0397.985.X.

- Ngày 10/9/2022, Cơ quan CSĐT đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Vũ Ng D. Tại Cơ quan điều tra, Vũ Ng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bản thân Th đang làm việc cho D và được D cho mượn nhà để ở. Toàn bộ số ma túy và đồ vật liên quan đến việc sử dụng ma túy đã bị thu giữ tại nơi ở của D và Th đều là của Vũ Ng D.

Quá trình điều tra xác định: Đinh Dũng A là nhân viên phục vụ tại quán Karaoke Phương N, biết được một số khách khi hát karaoke thường mua ma túy để sử dụng nên đã nảy sinh ý định tìm mua ma túy về bán lại cho người có nhu cầu để hưởng lợi nhuận. Đinh Dũng A rủ Phạm Văn C, đang làm nhân viên phục vụ tại quán karaoke Vân A (xã Nga Vịnh, huyện N) cùng tham gia và được C đồng ý. Tối ngày 04/9/2022, Dũng A sử dụng facebook “D kẹo” nhắn tin cho Đỗ Văn Th, facebook “Hoàng Đức B” hỏi có chỗ nào lấy đồ (ma túy) ngon không, Dũng A muốn mua 01 “uốn ke” và 50 “con kẹo”. Th trả lời “có em, để anh hỏi đại ca anh rồi báo lại”. Do đang làm công việc chở nhân viên cho Vũ Ng D và trước đó khoảng một tháng D nói có bán ma túy, nếu ai mua thì bảo D nên Th chụp ảnh màn hình nội dung tin nhắn của Dũng A gửi cho Vũ Ng D (facebook “Vũ Ng D”, Th đổi lưu tên là “H”). Th và D đều biết rõ mục đích của Dũng A mua ma túy về để bán lại cho khách nên đã thống nhất giá tiền 01 “uốn” (ketamine) giá 22.000.000đ và một viên “kẹo” (MDMA) giá 230.000đ. Sau đó, Th báo giá lại cho Dũng A. Tổng số tiền 01 uốn ke và 50 viên kẹo là 33.500.000đ, Dũng A hẹn 2 đến 3 ngày sẽ đến Ninh B lấy ma túy.

Do đã đặt mua được ma túy, tối ngày 05/9/2022, Dũng A nhắn tin cho Nguyễn Thị Ánh X (đang làm nhân viên phục vụ các quán karaoke) biết Dũng A có bán ma túy để X giới thiệu cho khách có nhu cầu. Khi X nhận tin nhắn, Nguyễn Văn D đang ngồi cạnh X nên cũng biết được nội dung tin nhắn Dũng A gửi cho X.

Khoảng 02h ngày 06/9/2022, sau khi liên lạc hẹn với Th, Dũng A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, BKS 36B7-X đến xã Nga Vịnh đón C, rồi cùng nhau đi đến thành phố Ninh B gặp Th. Th đưa Dũng A và C về nhà Vũ Ng D ở xã Ninh P, thành phố Ninh B, tỉnh Ninh B để giao dịch mua ma túy. Tại đây, Dũng A đưa cho Th số tiền 14.500.000đ (do đã thống nhất giá từ trước). Trước đó, Th nói Dũng A chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của chị Phạm Thị Thanh H (vợ của Vũ Ng D) nên Dũng A đã chuyển khoản số tiền 18.000.000đ vào tài khoản của chị H, còn 1.000.000đ, Dũng A xin nợ lại. Th cầm tiền xong, báo lại với D, D lấy hộp đựng ma túy đưa cho Dũng A rồi Dũng A và C ra về. Trong quá trình gặp gỡ, giao dịch mua bán ma túy, D và Th chỉ liên hệ, trao đổi và nhận thức bán ma túy cho một mình Dũng A. Số tiền bán ma túy mà có, chiều cùng ngày D đã cho Th 500.000đ và nói số tiền 1.000.000đ Dũng A nợ lại khi nào lấy được sẽ cho Th.

Mua được ma túy, Dũng A và C quay về huyện N, thuê một phòng tại nhà nghỉ Vàng Anh (xã Nga H). Tại đây, Dũng A và C cùng nhau chia số ma túy (loại ketamine) vừa mua được thành 30 gói nhỏ và thống nhất giá bán 01 viên “kẹo” là 400.000đ, 01 chỉ “ke” khoảng 3.000.000đ. Chia xong số ma túy trên, Dũng A giữ 01 chỉ ketamine bỏ trong một túi nilon và 10 viên kẹo (MDMA) để bán cho người có nhu cầu nhưng sau đó đã làm rơi 05 viên vào bồn cầu khi đi vệ sinh. Phần còn lại Dũng A giao cho C quản lý để bán.

Khoảng 09 giờ sáng ngày 06/9/2022, Mai Đình Đ cùng với bạn là Mai Đức Th đến cơ sở Gia L hát karaoke và được nhân viên phục vụ Nguyễn Văn D đưa vào phòng 602. Lên đến phòng, Đ hỏi D mua ma túy gồm nửa chỉ ketamine và 02 viên MDMA để sử dụng. Do bản thân không có ma túy nên D trả lời “tôi không bán”. Sau đó, Đ nhờ D tìm mua hộ ma túy giúp mình. D trả lời “để em hỏi đã”. D nhớ ra X có thể mua được ma túy nên gọi qua ứng dụng Mesenger cho Nguyễn Thị Ánh X nói “để cho anh 02 con kẹo với nửa chỉ ke”. X trả lời để X hỏi rồi báo lại. X gọi qua Messenger cho Đinh Dũng A hỏi giá 02 viên “kẹo” và nửa chỉ “ke”, Dũng A nhắn tin báo giá 2.600.000đ nhưng X nhìn nhầm là 2.800.000đ nên X gọi điện báo cho D giá 02 viên “kẹo” và nửa chỉ “ke” là 3.000.000đ (nhằm hưởng chênh lệch số tiền 200.000đ). Được X thông báo giá ma túy, D vào phòng 602 báo cho Đ biết và Đ đưa cho D số tiền 3.000.000đ. Sau đó, D báo lại cho X biết khách đồng ý và X liên lạc với Dũng A để hẹn địa điểm mua bán ma túy.

Khoảng 15 phút sau, Đinh Dũng A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, BKS 36B7-X đi từ quán karaoke Phương N đem theo 02 viên MDMA và nửa chỉ ketamine đến cơ sở Gia L giao cho X. Đến nơi, Dũng A gọi cho X ra lấy số ma túy. Số ma túy được Dũng A bỏ trong vỏ bao thuốc lá Thăng L màu vàng thả dưới đất ngay dưới tấm biển quảng cáo của cơ sở Gia L. Theo hướng dẫn của Dũng A, sau khi lấy được số ma túy trên, X gọi điện báo cho D biết. X đưa số ma túy này cho D tại nhà vệ sinh tầng 1 và nhận từ D số tiền 3.000.000đ. Lấy được ma túy, D mang lên phòng 602 đưa cho Đ. Đ sử dụng 02 viên MDMA, còn ketamine Đ bỏ vào túi quần với ý định sẽ tiếp tục sử dụng cho bản thân.

Nhận được tiền từ D, X đến quầy lễ tân gặp chị Hà Thị Ng (sinh năm 1993, ở thôn Hanh Gia, xã Nga G, huyện N, là nhân viên thu ngân của quán Gia L) đưa số tiền 3.100.000đ (gồm 3 triệu do bán ma túy cho D và 100.000đ tiền của X mang theo từ trước) để nhờ chị Ng chuyển số tiền này vào tài khoản ngân hàng của mình và được chị Ng đồng ý nên đã chuyển khoản thành công vào tài khoản của X và nhận số tiền mặt 3.100.000đ.

Khoảng 10 giờ ngày 06/9/2022, Nguyễn Bá T cùng bạn là Mai Văn Qu và Phạm Văn T đến phòng Vip 9999 tầng 6 cơ sở Gia L để hát karaoke nên X được gọi đến đây để phục vụ. Khi vừa đến nơi, X được Nguyễn Bá T hỏi mua 03 viên “kẹo” và nửa chỉ “ke”. X đồng ý và tiếp tục gọi điện cho Dũng A thì được Dũng A báo giá 03 viên “kẹo” và nửa chỉ “ke” là 3.000.000đ. Sau đó, X nói với T giá tiền là 3.300.000đ (nhằm hưởng lợi số tiền 300.000đ). T lấy tiền đưa cho X. X đến quầy lễ tân đưa số tiền 3.300.000đ cho chị Ng và tiếp tục nhờ chị Ng chuyển vào tài khoản ngân hàng của mình.

Khoảng 15 phút sau, Dũng A điều khiển xe mô tô mang số ma túy X đặt mua đến trước cửa cơ sở Gia L rồi gọi Mesenger cho X. Theo chỉ dẫn, X đến gần cánh cửa sắt bên hông quán Gia L, lấy ma túy được bỏ trong vỏ bao thuốc lá màu xanh. X đem ma túy lên phòng Vip 9999 tầng 6 đưa cho Nguyễn Bá T đồng thời ở lại phòng tiếp tục công việc phục vụ của mình.

Trong khoảng thời gian này, Nguyễn Thị Ánh X đã sử dụng dịch vụ SmartBanking chuyển số tiền 5.600.000đ từ tài khoản ngân hàng của mình sang tài khoản ngân hàng MBBank của Đinh Dũng A thanh toán tiền 02 lần mua ma túy. Sau khi mua được ma túy, T bỏ gói ketamine sau ổ công tắc điện trong phòng hát và cầm 03 viên MDMA trên tay, định sẽ sử dụng cho bản thân rồi đi vào nhà vệ sinh. Khi đang ở trong nhà vệ sinh, chưa kịp sử dụng thì nghe tiếng ồn ào bên ngoài, nghi có người đến kiểm tra nên T đã bỏ ma túy vào bồn vệ sinh rồi xả nước.

Ngày 07/9/2022, Cơ quan CSĐT ra Quyết định trưng cầu giám định số 87/QĐ- CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH giám định đối với số tang vật thu giữ được nghi là ma túy theo biên bản tạm giữ.

Tại Kết luận giám định số 3076/KL-KTHS ngày 12/9/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận:

- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “Thu giữ trên người của Mai Đình Đ” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,223g (không phẩy hai hai ba gam) loại: Ketamine.

- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong mặt trước có ghi “Thu giữ của Nguyễn Bá T” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,229g (Không phẩy hai hai chín gam) loại: Ketamine.

- 35 (ba năm) viên nén màu vàng nhạt của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 18,346g (mười tám phẩy ba bốn sáu gam) loại: MDMA.

- 05 (năm) viên nén màu vàng nhạt của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,603g (hai phẩy sáu không ba gam) loại: MDMA.

- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 12,041g (mười hai phẩy không bốn một gam) loại: Ketamine.

- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 5,825g (năm phẩy tám hai năm gam) loại: Ketamine.

- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong ký hiệu M4 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,838g (không phẩy tám ba tám gam) loại: Ketamine.

* Ngày 12/9/2022, Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 88/QĐ-CSĐT, trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH giám định các chất màu trắng và viên nén Cơ quan CSĐT Công an huyện N thu giữ ngày 10/9/2022 khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Ng D và Đỗ Văn Th.

Tại Kết luận giám định số 3157/KL-KTHS ngày 19/9/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận:

- Phong bì ký hiệu M1: “Chất màu trắng dạng tinh thể niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,223g (không phẩy hai hai ba gam) loại: Methamphetamine”.

- Phong bì ký hiệu M2: 01 (một) viên nén màu vàng nhạt niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,525g (không phẩy năm hai năm gam) loại: MDMA.

- Hộp cát tông màu nâu hồng:

+ Chất bột màu trắng bám dính trên đĩa sứ niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: ketamine. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

+ Chất bột màu trắng bám dính trên tờ tiền mệnh giá 10.000đ (mười nghìn đồng) niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Ketamine. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

+ Chất bột màu trắng bám dính trên thẻ cứng, màu xám, có in dòng chữ “PHAM T THANH H” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Ketamine. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

- Phong bì ký hiệu M3: 02 (hai) viên nén màu hồng niêm phong gửi giám định có tổng khối lượng 0,321g (không phẩy ba hai một gam). Phòng KTHS từ chối giám định do không đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc giám định.

- Hộp catton:

+ Chất bột màu trắng bám dính trên đĩa sứ niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: ketamine. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

+ Chất bột màu trắng bám dính trên tờ tiền mệnh giá 10.000đ (mười nghìn đồng) niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Ketamine. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

* Ngày 26/9/2022, Cơ quan CSĐT ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 04/QĐ-CSĐT trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định đối với 02 viên nén màu hồng thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Văn Th.

Tại Kết luận số 6464/KL-KTHS ngày 05/10/2022, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Không tìm thấy thành phần chất ma túy trong mẫu viên nén màu hồng gửi giám định.

Đối với chị Hà Thị Ng không biết nội dung, mục đích X nhờ chuyển tiền nên đã tự nguyện giao nộp số tiền 6.400.000đ để phục vụ điều tra. Ngày 08/11/2022, Cơ quan CSĐT đã trả lại số tiền trên cho chị Ng, do không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Đối với tài sản của cơ sở Gia L, Cơ quan CSĐT tạm giữ đầu thu camera nhằm trích xuất dữ liệu phục vụ điều tra. Tại biên bản làm việc ngày 16/9/2022 thể hiện đầu thu camera không hoạt động, theo chị Hà Thị Ng trình bày khoảng một tuần trước đầu thu bị hỏng nên không còn hoạt động. Ngày 08/11/2022, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho cơ sở Gia L theo quy định.

- Đối với số tiền 18.000.000đ, Đinh Dũng A chuyển khoản đến số tài khoản của chị H vào ngày 06/9/2022, chị H không biết do D (chồng chị) cũng thường lấy điện thoại của chị H để sử dụng. Cơ quan CSĐT không tạm giữ để xử lý là phù hợp quy định.

- Số tiền 32.500.000đ là số tiền D có được từ việc bán ma túy, Vũ Ng D đã tác động gia đình, tự nguyện giao nộp hiện đang được bảo quản chờ xử lý theo quy định.

- Xe mô tô mà Dũng A sử dụng làm phương tiện đi Ninh B mua ma túy và 02 lần đi giao bán ma túy cho X. Quá trình điều tra xác định, xe mô tô đó là của anh Mai Văn Th1, sinh năm 1981 (ở thôn Cần Th, xã Nga H, chủ quán karaoke Phương N nơi Dũng A làm nhân viên). Chiếc xe này để ở quán nên Dũng A thường lấy sử dụng chở nhân viên, việc Dũng A lấy sử dụng đi mua bán ma túy anh Th1 không biết. Do đó, Cơ quan CSĐT không thu giữ là phù hợp quy định.

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, BKS 36B3-X Phạm Văn C tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT. Quá trình điều tra xác định xe trên là của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1980 (mẹ đẻ của C). Việc C sử dụng chiếc xe và đem theo ma túy chị L không biết. Ngày 16/01/2023, Cơ quan CSĐT đã trả lại chiếc xe trên cho chị L theo quy định.

Đối với Nguyễn Văn D, không đồng phạm với Nguyễn Thị Ánh X trong việc bán trái phép chất ma túy do không có bàn bạc, trao đổi trước. D cũng không mời chào hay có hành vi chủ động trong việc bán ma túy cho khách, hành vi xuất phát từ khi Mai Đình Đ chủ động đặt vấn đề, nhờ D mua hộ ma túy, do nhớ ra X có thể mua được ma túy nên D đã liên hệ hỏi mua hộ cho khách. Bản thân D không có ý định mua ma túy và thực tế không được hưởng lợi gì. Do vậy, Nguyễn Văn D, Mai Đình Đ và Nguyễn Bá T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Số ma túy Mai Đình Đ bị thu giữ có khối lượng 0,233g (không phẩy hai ba ba gam) loại Ketamine và số ma túy Nguyễn Bá T bị thu giữ có khối lượng 0,229g (không phẩy hai hai chín gam) loại Ketamine, đều dưới định lượng 01 gam theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 BLHS. Xét về nhân thân, các đối tượng này đều chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến ma túy nên hành vi của Nguyễn Văn D, Mai Đình Đ và Nguyễn Bá T không phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 BLHS. Trong thời gian ở phòng hát, Đ và T không đưa ma túy hay rủ rê người khác sử dụng ma túy, do đó, Đ và T không phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 255 BLHS nên các đối tượng này bị xử phạt hành chính là đúng quy định.

Đối với số ma túy mà Vũ Ng D khai mua của người người đàn ông tên Chung, ở khu vực cầu Ý Yên, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định về bán cho Dũng A vào ngày 06/9/2022, với giá 24.000.000đ và được người này cho thêm 02 viên “kẹo” và 01 túi ma túy loại Methamphetamine. Về đến nhà, D đã sử dụng 01 viên kẹo và một phần ketamine. Ngoài số ma túy đã bán cho Dũng A, D còn tàng trữ, cất giấu nhằm bán lại cho khách có nhu cầu 01 viên kẹo và 01 túi Methamphetamine (số ma túy này đã bị thu giữ khi Cơ quan CSĐT khám xét khẩn cấp nơi ở của D và Th). Do đó, toàn bộ số ma túy Cơ quan CSĐT đã thu giữ trong vụ án này đều có nguồn gốc là của Vũ Ng D, qua trưng cầu giám định và được hoàn lại đối tượng sau giám định đều đang được bảo quản để xử lý theo quy định.

Đối với người đàn ông tên Chung, ở khu vực cầu Ý Yên, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, D khai đã bán ma túy cho mình. Tuy nhiên, D không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ liên lạc cụ thể của người này, qua xác minh tại xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định không có ai tên Chung với đặc điểm như lời trình bày của Vũ Ng D, do đó, không có cơ sở để truy tìm, xử lý theo quy định.

Đối với Chủ cơ sở kinh doanh karaoke Gia L là anh Mai Chấn D, sinh năm 1993, trú tại thôn Hanh Gia, xã Nga G, huyện N. Quá trình điều tra xác định ngày 06/9/2022, anh D không hay biết việc các đối tượng thực hiện hành vi mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy trong cơ sở kinh doanh thuộc quyền quản lý của mình. Cơ quan CSĐT đã chuyển hồ sơ để xem xét xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

* Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Lê Minh T, Trần Thị Thúy H1, Nguyễn Văn M và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, ký hiệu T1, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH; bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 tờ tiền mệnh giá 10.000đ).

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH (bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 10.000đ);

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T4, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong số 6464/C09 trên mép dán có hình dấu của Viện Khoa học hình sự-Bộ Công an và chữ ký ghi họ tên Đặng Thị Thủy, Lê Hùng C;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng nhạt, gắn sim số 0961.987.X (của Phạm Văn C).

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, gắn sim số 0379.985.X (của Đỗ Văn Th);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, gắn sim số 0332.878.X (của Ánh X);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, gắn sim số 0961.581.X (của Nguyễn Văn D);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, gắn sim số 0397.640.X (của Dũng A).

- Số tiền 32.500.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 14/02/2023 giữa cơ quan Công an và Kho bạc Nhà nước N.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo cáo trạng số 06/CT-VKSNS-MT ngày 13/02/2023 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đối với Đinh Dũng A theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Phạm Văn C, Đỗ Văn Th, Vũ Ng D theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Nguyễn Thị Ánh X theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng:

- điểm b, p khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đinh Dũng A từ 08 năm 03 tháng đến 08 năm 09 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

- điểm p khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo:

+ Vũ Ng D từ 08 năm đến 08 năm 03 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (10/9/2022).

+ Đỗ Văn Th từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (11/9/2022).

+ Phạm Văn C, từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

- điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ánh X từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 09 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo, vì bị cáo là lao động tự do và bị cáo X là người dưới 18 tuổi, không có thu nhập.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Lê Minh T, Trần Thị Thúy H1, Nguyễn Văn M và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, ký hiệu T1, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T4, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong số 6464/C09 trên mép dán có hình dấu của Viện Khoa học hình sự-Bộ Công an và chữ ký ghi họ tên Đặng Thị Thủy, Lê Hùng C;

Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng nhạt, gắn sim số 0961.987.X của Phạm Văn C;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, gắn sim số 0379.985.X của Đỗ Văn Th;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, gắn sim số 0332.878.X của Nguyễn Thị Ánh X;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, gắn sim số 0397.640.X của Đinh Dũng A.

- Số tiền 32.500.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 14/02/2023 giữa cơ quan Công an và Kho bạc Nhà nước N.

- 02 tờ tiền mệnh giá 10.000đ đang trong phong bì ký hiệu T1 và thùng các tông ký hiệu T2.

Truy thu:

+ Số tiền 5.600.000đ của Đinh Dũng A do Nguyễn Thị Ánh X chuyển thanh toán tiền 02 lần mua ma túy.

+ Số tiền 700.000đ của Nguyễn Thị Ánh X là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 02 lần ma túy cho Nguyễn Văn D (mua cho khách) và cho Nguyễn Bá T;

Trả lại cho Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, gắn sim số 0961.581.X;

Ngoài ra, không truy thu số tiền 500.000đ của Đỗ Văn Th là từ khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của bị cáo Vũ Văn D cho bị cáo do bị cáo D tự nguyện cho Th 500.000đ trong số tiền đang bị thu giữ là 32.500.000đ chờ xử lý.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh X có các quan điểm như sau:

- Về nhân thân, hoàn cảnh gia đình và nhận thức của bị cáo: Bị cáo sinh ra trong gia đình không hạnh phúc, có bố mẹ bị cáo ly hôn. Ban đầu bị cáo sống cùng bố, khi bố bị cáo có gia đình riêng, mẹ bị cáo cũng có gia đình riêng. Bị cáo được chuyển về sinh sống cùng với bác. Trình độ học vấn của bị cáo lớp 8/12. Bị cáo tự lo công việc, làm nhân viên ở quán hát để trang trải cho cuộc sống của mình. Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là xuất phát từ hoàn cảnh gia đình, nhận thức của bị cáo về cuộc sống cũng như pháp luật nói riêng.

Nhân thân bị cáo: trước khi phạm tội, bị cáo chưa từng vi phạm pháp luật, luôn chấp hành chính sách, chủ trương của địa phương nơi bị cáo cư trú, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo luôn có thái độ hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi của mình. Ngoài ra, sau khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo đầu thú về hành vi của mình nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS 2015.

Luật sư đề nghị HĐXX:

+ Về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo, luật sư đồng tình, không có ý kiến gì.

+ Về TNHS: Áp dụng khoản điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 91, Điều 101, điều 38 BLHS 2015 đề nghị HĐXX tuyên bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị mức hình phạt 63 tháng tù giam để bị cáo yên tâm cải tạo để sớm được trở về với gia đình và xã hôi.

+ Về hình phạt bổ sung: Khi bị cáo phạm tội là người chưa thành niên nên theo quy định tại Khoản 6 Điều 91 BLHS 2015 thì không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS và luật sư, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Dũng A, Vũ Ng D, Đỗ Văn Th, Phạm Văn C và Nguyễn Thị Ánh X khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Là nhân viên quán hát nên Đinh Dũng A biết khách có nhu cầu sử dụng ma túy nên cùng Phạm Văn C mua ma túy để bán cho người mua để hưởng chênh lệch. Sau đó, Dũng A nhắn tin cho Đỗ Văn Th hỏi mua ma túy, được Th trả lời có và Th liên hệ với Vũ Ng D. Th và D hiểu Dũng A hỏi mua ma túy mục đích bán cho khách nên thống nhất giá.

Ngày 06/9/2022, Vũ Ng D và Đỗ Văn Th đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đinh Dũng A tại nhà riêng ở Ninh B. Mua được ma túy Dũng A và C mang về N, chia nhỏ, cất giấu, bán lại cho khách có nhu cầu.

Cùng ngày, Dũng A đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thị Ánh X và X đã bán lại cho Nguyễn Văn D và Nguyễn Bá T, hưởng lợi số tiền 700.000đ.

Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám xét, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu, lời khai của những người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Khối lượng chất ma túy làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Đinh Dũng A, Phạm Văn C và Đỗ Văn Th gồm 19,156 gam Ketamine; 20,949 gam MDMA nên các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 BLHS. Ngoài ra, Đinh Dũng A còn phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Vũ Ng D có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đinh Dũng A và bán trái phép chất ma túy cho khách có nhu cầu, gồm 19,156 gam Ketamine; 0,223 gam Methamphetamine và 21,474 gam MDMA. Do đó, Vũ Ng D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 BLHS. Nguyễn Thị Ánh X có hành vi 02 lần mua ma túy của Đinh Dũng A trong ngày 06/9/2022, sau đó bán lại cho 02 người là Nguyễn Văn D và Nguyễn Bá T nhằm hưởng lợi, nên bị cáo X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS.

Như vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức rõ về hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của các bị cáo có tính chất và mức độ rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc mua bán, trao đổi các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân. Ngoài ra, bị cáo Vũ Ng D có tiền sự và nhân thân xấu nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa, khắc phục sai lầm, tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Trong đó, Đinh Dũng A là người đã nảy sinh ý định và khởi xướng việc đặt mua ma túy mang về huyện N, mục đích chia nhỏ để bán cho khách và đã thực hiện hoàn thành 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Thị Ánh X. Vũ Ng D là người đã đặt mua toàn bộ số ma túy về để bán lại cho Dũng A và thực hiện việc cất giấu, tàng trữ một phần ma túy để bán lại cho những khách có nhu cầu. Do đó, Dũng A có vai trò đầu vụ; bị cáo D có vai trò thứ hai. Đỗ Văn Th và Phạm Văn C có vai trò đồng phạm giúp sức cho D và Dũng A nên có vai trò thấp hơn sau Dũng A và D. Nguyễn Thị Ánh X là người đã 02 lần mua lẻ ma túy của Đinh Dũng A để bán lại cho khách nên có vai trò thấp nhất trong vụ án.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: bị cáo Vũ Ng D có nhân thân xấu.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Đinh Dũng A, Vũ Ng D, Đỗ Văn Th, Phạm Văn C, Nguyễn Thị Ánh X phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Quá trình điều tra, các bị cáo Dũng A, C, Th, X đã đầu thú về hành vi phạm tội. Ngoài ra bị cáo C có ông nội là Phạm Công H, bà nội là Bùi Thị N, ông ngoại Nguyễn Hữu Ph, bà ngoại Nguyễn Thị T là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương. Bị cáo Vũ Ng D tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính; mặt khác bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố đẻ ốm đau, vợ không có công việc làm ổn định, các con còn nhỏ. Do đó, các bị cáo Dũng A, D, Th, C, X được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[6] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Đinh Dũng A, Vũ Ng D, Đỗ Văn Th, Phạm Văn C là lao động tự do, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS đối với các bị cáo. Bị cáo Nguyễn Thị Ánh X phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 91 của BLHS nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xét đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý: là luật sư bào chữa cho bị cáo X, HĐXX thấy rằng đề nghị của trợ giúp viên pháp lý là có căn cứ nên được chấp nhận xem xét.

[8] Từ những căn cứ nêu trên: HĐXX xét thấy: bị cáo Dũng A có nhân thân tốt, nhưng giữ vai trò đầu vụ, hành vi vi phạm của bị cáo thuộc quy định tại điểm b, p Điều 251 của BLHS; bị cáo D có nhân thân xấu, giữ vai trò thứ hai trong vụ án, nhưng gia đình có hoàn cảnh khó khăn bố đẻ ốm đau, vợ không có công việc làm ổn định, các con còn nhỏ; bị cáo Th và bị cáo C có vai trò sau bị cáo D nhưng bị cáo C có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn bị cáo Th; bị cáo X có vị trí vai trò thấp nhất so với các bị cáo. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX căn cứ các tình tiết giảm nhẹ TNHS để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Ngoài ra, bị cáo X phạm tội khi chưa đủ 18 nên được áp dụng Chương XII những quy định chung đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 của BLHS để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

* Cần tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, ký hiệu T1, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH (bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định);

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T4, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong số 6464/C09 trên mép dán có hình dấu của Viện Khoa học hình sự-Bộ Công an và chữ ký ghi họ tên Đặng Thị Thủy, Lê Hùng C;

* Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng nhạt, gắn sim số 0961.987.X (của Phạm Văn C);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, gắn sim số 0379.985.X (của Đỗ Văn Th);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, gắn sim số 0332.878.X (của Nguyễn Thị Ánh X);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, gắn sim số 0397.640.X (của Đinh Dũng A).

- Số tiền 32.500.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 14/02/2023 giữa cơ quan Công an và Kho bạc Nhà nước N.

- 02 tờ tiền mệnh giá 10.000đ đang trong phong bì ký hiệu T1 và thùng các tông ký hiệu T2.

* Truy thu:

+ Số tiền 5.600.000đ của Đinh Dũng A do Nguyễn Thị Ánh X chuyển thanh toán tiền 02 lần mua ma túy.

+ Số tiền 700.000đ của Nguyễn Thị Ánh X là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 02 lần ma túy cho Nguyễn Văn D (mua cho khách) và cho Nguyễn Bá T;

Trả lại cho Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, gắn sim số 0961.581.X;

* Ngoài ra, không truy thu số tiền 500.000đ của Đỗ Văn Th là từ khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của bị cáo Vũ Văn D cho bị cáo do bị cáo D tự nguyện cho Th 500.000đ trong số tiền đang bị thu giữ là 32.500.000đ chờ xử lý.

[10] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: điểm b, p khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Đinh Dũng A).

- điểm p khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Vũ Ng D, Đỗ Văn Th, Phạm Văn C)

- điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Thị Ánh X);

* Tuyên bố: Các bị cáo Đinh Dũng A, Vũ Ng D, Đỗ Văn Th, Phạm Văn C, Nguyễn Thị Ánh X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt:

- Bị cáo Đinh Dũng A 08 (tám) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

- Bị cáo Vũ Ng D 08 (tám) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (10/9/2022).

- Bị cáo Đỗ Văn Th 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (11/9/2022).

- Bị cáo Phạm Văn C 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

- Bị cáo Nguyễn Thị Ánh X 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (07/9/2022).

* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH phát hành, ký hiệu T1, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH (bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định);

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T2, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) hộp catton, ký hiệu T4, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng KTHS Công an tỉnh TH;

- 01 (một) phong bì niêm phong số 6464/C09 trên mép dán có hình dấu của Viện Khoa học hình sự-Bộ Công an và chữ ký ghi họ tên Đặng Thị Thủy, Lê Hùng C;

* Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng nhạt, gắn sim số 0961.987.X (của Phạm Văn C);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh rêu, gắn sim số 0379.985.X (của Đỗ Văn Th);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, gắn sim số 0332.878.X (của Nguyễn Thị Ánh X);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, gắn sim số 0397.640.X (của Đinh Dũng A).

- Số tiền 32.500.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 14/02/2023 giữa cơ quan Công an và Kho bạc Nhà nước N.

- 02 tờ tiền mệnh giá 10.000đ đang trong phong bì ký hiệu T1 và thùng các tông ký hiệu T2.

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 15/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N và Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 14/02/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện N, tỉnh TH).

* Truy thu số tiền để nộp Ngân sách Nhà nước, gồm:

+ Số tiền 5.600.000đ của Đinh Dũng A do Nguyễn Thị Ánh X chuyển thanh toán tiền 02 lần mua ma túy.

+ Số tiền 700.000đ của Nguyễn Thị Ánh X là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 02 lần ma túy cho Nguyễn Văn D (mua cho khách) và cho Nguyễn Bá T;

Trả lại cho Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, gắn sim số 0961.581.X;

* Ngoài ra, không truy thu số tiền 500.000đ của Đỗ Văn Th là từ khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của bị cáo Vũ Văn D cho bị cáo do bị cáo D tự nguyện cho Th 500.000đ trong số tiền đang bị thu giữ là 32.500.000đ .

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc các bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về