Bản án về tội môi giới mại dâm số 18/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 05 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2021/TLST - HS ngày 12 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: H’ Y Niê; giới tính: Nữ;

Tên gọi khác: Mí Thư;

Sinh năm 1966, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Buôn W, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Ê đê; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 3/12 Nghề nghiệp: Làm nông. Họ và tên cha: Y Ph Mlô, đã chết;

Họ và tên mẹ: H’ P Niê, đã chết;

Họ và tên chồng: Y K Mlô sinh năm 1967 (đã ly hôn). Anh, chị em ruột: Bị can là con thứ hai trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo H’ Y Niê theo quyết định của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Đình Đạt – Trợ giúp viên pháp lý, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị H’ Th Niê ( sinh năm 1989, vắng mặt ).

Địa chỉ: Buôn W, xã E, huyện K, tỉnh ĐăkLăk.

2. Anh Nguyễn Đình H ( Vắng mặt ).

Địa chỉ: Tổ dân phố 2, Thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 19/12/2020, Lê Văn T (hiện chưa xác minh được nhân thân lai lịch) và Nguyễn Đình H rủ nhau đến nhà H’ Th Niê tại Buôn W, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để mua dâm. Khi đến nơi T và H gặp H’Y Niê (mẹ ruột của H’ Th) hỏi mua dâm thì H’Y trả lời: H’ Th đi vắng. T và H nhờ H’Y gọi điện cho H’ Th về để mua dâm đồng thời hứa sẽ cho H’Y tiền điện thoại thì H’Y đồng ý. H’Y sử dụng điện thoại di động số 0778534… gọi đến số điện thoại 0338157…. của H’Th gọi H’ Th về bán dâm nhưng H’Th bảo bận nên chưa về được. H’Y báo cho T và H biết việc H’Th chưa về được và bảo H để lại số điện thoại, khi nào H’Th về thì gọi cho H nên H đưa cho H’Y 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), trao đổi số điện thoại với H’Y rồi quay đi. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, H’Th về. H’Y sử dụng điện thoại di động số 0778534…. gọi đến số điện thoại 0837932…. của H để thông báo cho H biết việc gái bán dâm đã về để quay lại mua dâm. Khi T và H quay lại H’Th chỉ đồng ý bán dâm cho 01 người nên T đã mua dâm H’Th với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Còn H đứng nói chuyện với H’Y. Khi T và H’Th đang ở phòng ngủ của H’Th để thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- Số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số Sêri 1353101113209539 và 01 chứng minh nhân dân số 240336… mang tên H’Y Niê của H’Y Niê;

- Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30, màu xanh đen, số IMEI 1: 354868100321316, số IMEI 2: 354869100321314 của H’Th Niê;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, gắn ốp lưng màu đen, IMEI 1: 860722044862413, số IMEI 2: 860722044862405 của Nguyễn Đình H.

Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố bị cáo H’ Y Niê về tội: Môi giới mại dâm, quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo H’ Y Niê thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng giữ nguyên toàn bộ nội dung quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo H’ Y Niê phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 328; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H’ Y Niê từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ea Hồ, huyện Krông Năng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng trả lại:

01 chứng minh nhân dân số 240336… mang tên H’Yě Niê cho H’Y Niê; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30, màu xanh đen, số IMEI 1: 354868100321316, số IMEI 2: 354869100321314 cho H’Th Niê; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, gắn ốp lưng màu đen, IMEI 1: 860722044862413, số IMEI 2: 860722044862405 cho Nguyễn Đình H;

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số Sêri 1353101113209539 là công cụ, phương tiện môi giới mại dâm; số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) do môi giới mại dâm mà có; số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do bán dâm mà có.

- Người bào chữa cho bị cáo H’Y Niê trình bày lời bào chữa: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo H’Y Niê về tội “ Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 BLHS là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi vì bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là phụ nữ và là người dân tộc thiểu số sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp, nên nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm và người bào chữa trình bày lời bào chữa, bị cáo không gia tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như diễn biến hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng.

Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 15 giờ 00 phút ngày 19/12/2020, tại Buôn W, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, H’Y Niê đã có hành vi môi giới, làm trung gian cho H’Th Niê và Lê Văn T thực hiện hành vi mua bán dâm.

Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” theo quy ñònh taïi khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sựï là hoàn toàn có căn cứ.

Khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Haønh vi phaïm toäi do bò caùo thöïc hieän coù tính nguy hieåm cho xaõ hoäi. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Chính vì vậy việc xử lý bị cáo một cách nghiêm minh bằng pháp luật hình sự là hoàn toàn cần thiết và thỏa đáng. Vì như vậy vừa bảo đảm nguyên tắc trừng trị của pháp luật đối với người phạm tội và qua việc xử lý bị cáo một cách nghiêm minh cũng có taùc duïng phoøng ngöøa raên ñe chung trong cộng đồng.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: HĐXX xét thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật có phần hạn chế. Thực hiện chính sách khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi ấn định mức hình phạt cụ thể.

HĐXX xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi do bị cáo thực hiện thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt cách ly bị các cáo ra khỏi xã hội mà có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại cộng đồng dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng có đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo làm nghề nông, có điều kiện hoàn cảnh khó khăn, nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[4]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với việc giải quyết vụ án là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận. Tuy nhiên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5]. Về các biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số Sêri 1353101113209539 và số tiền 350.000đ: Đây là tiền và tài sản liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 chứng minh nhân dân số 240336… mang tên H’Y Niê; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30 của H’Th Niê và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme của Nguyễn Đình H: Đây là các giấy tờ, tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội, nên việc Cơ quan điều tra trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

[6]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống tại xã đặc biệt khó khăn, căn cứ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐXX miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Vì nhữ lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo H’ Y Niê phaïm toäi “Môi giới mại dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 328; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo H’ Y Niê 09 ( Chín ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 ( Một ) năm 06 ( Sáu ) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng Điều 92 Luật thi hành án hình sự để thực hiện.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Công nhận Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại 01 chứng minh nhân dân số 240336… mang tên H’Y Niê cho H’Y Niê; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30 cho H’Th Niê và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme cho Nguyễn Đình H:

- Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số Sêri 1353101113209539 và số tiền 350.000đ ( Vật chứng và tiền đã được chuyển đến Chi cục Thi hàng án dân sự huyện Krông Năng theo Biên bản giao nhận ngày 12/3/2021 và Biên lai thu tiền số AA/2013/16367 ngày 12/3/2021).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H’Y Niê.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 18/2021/HS-ST

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về