Bản án về tội môi giới mại dâm số 64/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2022/HSST, ngày 06 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Tô Thị D, sinh ngày 16/11/1984; Nơi ĐKHKTT: xóm R, xã L, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Chỗ ở hiện nay: thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tô Văn T2 (đã chết); con bà Hứa Thị H1; Có chồng là Đỗ Xuân M (đã chết) và có 02 con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/5/2022 đến ngày 03/6/2022 thì được thay thế biện pháp ngăn chặn. Hiện bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Người làm chứng:

1. Chị Lò Thị V sinh năm 1991 (vắng mặt);

Trú tại: Tiểu khu 2, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La.

2. Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1983 (vắng mặt);

Trú tại: Tổ A, phường S, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

*Người làm chứng:

1. Anh Hà Hải T sinh năm 2001 (vắng mặt); Trú tại: tổ T, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

2. Anh Nông Văn T1 sinh năm 1973 (vắng mặt); Trú tại: thôn C, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 27/5/2022, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Bắc Kạn tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ TM thuộc thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn do bà Đinh Thị L, sinh năm 1958, trú tại thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn đứng tên đăng ký kinh doanh thì phát hiện:

Tại phòng số 103 của Nhà nghỉ TM có 01 (một) đôi nam, nữ đang thực hiện hành vi mua, bán dâm. Quá trình làm việc đối tượng nữ khai tên là Lò Thị V, sinh năm 1991, trú tại xã M, huyện M, tỉnh Sơn La và đối tượng nam khai tên là Hà Đức Toàn, sinh năm 1995, trú tại tổ A, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Qua kiểm tra phát hiện thu giữ tang vật gồm: 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của Lò Thị V: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 thẻ sim và số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

Tại phòng số 104 của Nhà nghỉ TM có 01 (một) đôi nam, nữ đang thực hiện hành vi mua, bán dâm. Quá trình làm việc đối tượng nữ khai tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1983, trú tại tổ A, phường S, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn và đối tượng nam khai tên là Hoàng Văn Quân, sinh năm 1977, trú tại tổ C, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ tang vật gồm: 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng và 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA, màu xanh. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của Nguyễn Thị H: 01 (một) bao cao su nhãn hiệu Gsmall chưa qua sử dụng; 01 (một) căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị H;

01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 thẻ sim; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu vàng đồng đã qua sử dụng, bên trong gắn 02 thẻ sim và số tiền 3.386.000đ (ba triệu ba trăm tám mươi sáu nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định: Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 27/5/2022, Tô Thị D đang nằm sử dụng điện thoại trong quán nước giải khát của D (do D thuê của bà Trương Ngọc L, sinh năm 1975, trú tại thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn) thì có Hà Hải T, sinh năm 2001, trú tại tổ T, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn và Nông Văn T1, sinh năm 1973, trú tại thôn C, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn đi vào quán với mục đích để mua dâm. Sau khi vào quán, T và T1 gọi 02 (hai) lon nước bò húc để uống. Sau khi uống nước xong, Hà Hải T có hỏi D là “Có ai đi chơi không chị” (có nghĩa là có nhân viên nữ bán dâm không?) thì D trả lời là “Có”. Lúc này, trong quán có Lò Thị V, sinh năm 1991, trú tại Tiểu khu A, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La và một nữ nhân viên khác tên Vy đang ngồi chơi ở quán. Sau khi nhìn thấy V và Vy, T chê Vy béo quá và bảo D đổi cho người khác và hứa sẽ bồi dưỡng (trả tiền công) thêm cho D, D đồng ý rồi dùng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng bên trong gắn sim có số thuê bao 0362315… gọi điện đến số thuê bao 0386545…của Nguyễn Thị H (D lưu trong danh bạ điện thoại tên là “U”) để hỏi H “đang ở đâu” thì H nói là đang ở trên này (lúc này H đang ở khu vực Cầu đen thuộc tổ A, phường S, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn). Sau đó, D nói với H là “Xuống có khách này, xem có đi không” (có nghĩa là đang có khách đến mua dâm, xuống xem có đi bán dâm không) thì H đồng ý và nói lại với D “Tao xuống bây giờ”. Quá trình D gọi điện thoại cho H thì T và T1 vẫn có mặt ở trong quán và nghe D nói chuyện với H. Sau khi gọi điện thoại nói chuyện với H xong, D thỏa thuận giá mua, bán dâm với T là 350.000đ/người/lượt “tàu nhanh” (có nghĩa là mỗi lần mua, bán dâm chỉ quan hệ tình dục một lần trong khoảng 30 phút) và được T đồng ý. Sau đó, T lấy ra số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) đưa cho D nói là trả tiền mua dâm, tiền nước và tiền bồi dưỡng cho D. D cầm lấy số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) T đưa cho rồi cất đi số tiền 200.000đ (trong đó có 40.000đ là tiền bán hai lon bò húc, còn 160.000đ là tiền T bồi dưỡng cho D về việc đổi người bán dâm), còn lại số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) là tiền mua, bán dâm, D để trên bàn uống nước ngoài cửa quán. Giữa D và những người bán dâm đã thống nhất từ trước là trong số tiền 350.000đ/lượt bán dâm thì người bán dâm sẽ phải trả cho nhà nghỉ 50.000đ tiền thuê phòng, sau đó trích lại cho D 70.000đ tiền công môi giới, còn lại 230.000đ thì người bán dâm được hưởng. Khoảng 10 phút sau, H đi xe mô tô đến quán nước của D rồi chở V bằng xe mô tô di chuyển đến nhà nghỉ TM thuộc thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn ở bên cạnh quán nước của D thuê phòng để bán dâm. Khi V và H chuẩn bị đi thì D lấy số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) là tiền T trả tiền mua dâm lúc trước D để trên bàn uống nước đưa cho V. Sau đó, T và T1 đi bộ sang nhà nghỉ TM, còn D đi vào trong quán nước. Đến nhà nghỉ TM, T và V vào phòng 103, còn T1 và H vào phòng 104 để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi T và T1 đang thực hiện hành vi mua, bán dâm với V và H thì bị tổ công tác của Công an thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn kiểm tra, lập biên bản, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài sản như nêu trên.

Cùng ngày 27/5/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã tiến hành khám xét khẩn cấp người và chỗ ở đối với Tô Thị D tại thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. Qua khám xét phát hiện thu giữ, tạm giữ của Tô Thị D: 13 (mười ba) bao cao su nhãn hiệu HA THIN vỏ màu xanh dương chưa qua sử dụng;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL máy có phím bấm, đã qua sử dụng, bên trong không gắn thẻ sim và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 sim.

Trong quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, Lò Thị V, Nguyễn Thị H, Hà Hải T và Nông Văn T1 khai nhận toàn bộ hành vi mua, bán dâm như đã nêu trên. Ngoài ra, Hà Hải T và Nông Văn T1 còn khai nhận do lo sợ bị xử lý về hành vi “mua dâm” sẽ ảnh hưởng đến gia đình nên khi bị Cơ quan điều tra phát hiện, lập biên bản về hành vi “mua dâm” vào ngày 27/5/2022 tại nhà nghỉ TM và tại các buổi làm việc với Cơ quan điều tra vào ngày 28/5/2022, Hà Hải T đã khai tên là Hà Đức Toàn, sinh năm 1995, trú tại tổ A, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn còn Nông Văn T1 khai tên là Hoàng Văn Quân, sinh năm 1977, trú tại tổ C, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn.

Trong quá trình điều tra, truy tố, Tô Thị D đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Lời khai nhận của bị can phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Tại Cáo trạng số 48/CT-VKSTP ngày 06/9/2022 của VKSND thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn truy tố bị cáo Tô Thị D về tội "Môi giới mại dâm" theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự và tại bản luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:

*Tuyên bố: Bị cáo Tô Thị D phạm tội: "Môi giới mại dâm".

- Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Tô Thị D 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

*Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 103 nhà nghỉ TM); 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 104 nhà nghỉ TM); 03 (ba) sim điện thoại (xác sim) có bên trong 02 (hai) chiếc điện thoại di động đang bị tạm giữ.

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83, mặt lưng màu vàng đồng, đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền: 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền 160.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng) là số tiền do bị cáo phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 360.000đ (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) theo biên lai số 0002083 ngày 09/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn để thi hành án cho bị cáo.

*Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng, mong Hội đồng xét xử xem xét xử với mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Kạn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 27/5/2022, tại quán nước giải khát của Tô Thị D thuộc thôn N, xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn, Tô Thị D đã có hành vi môi giới cho Lò Thị V và Nguyễn Thị H bán dâm cho Hà Hải T và Nông Văn T1 với số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng)/người/lượt. Khi V và H đang bán dâm cho T và T1 tại phòng nghỉ số 103 và 104 của nhà nghỉ TM (có cùng địa chỉ trên) thì bị Cơ quan điều tra phát hiện lập biên bản, thu giữ tang vật là 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng và số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

[3] Hành vi nêu trên của Tô Thị D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Môi giới mại dâm” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật hình sự. Điều luật có nội dung:

“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

đ) Đối với 02 người trở lên;

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Cáo trạng số 48/CT-VKSTP, ngày 06/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, phải được xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo:

Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo tự nguyện nộp số tiền 360.000đ cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn để thi hành án cho bị cáo; Gia đình bị cáo có ông Tô Viết A (em ruột của ông nội bị cáo) là Liệt sỹ, do ông A chưa lập gia đình, chưa có con cái nên từ khi ông A hy sinh cho đến nay, gia đình bị cáo đã thờ cúng, chăm lo hương hỏa cho ông A. Ngoài ra bị cáo còn có ông ngoại được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì và Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng; ông nội của chồng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm, có cơ hội được tiếp tục lao động làm ăn lương thiện nên cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách cũng đảm bảo sự công bằng và khoan hồng của pháp luật.

Đối với Hà Hải T và Nông Văn T1 là người có hành vi mua dâm đối với Lò Thị V và Nguyễn Thị H vào ngày 27/5/2022 tại nhà nghỉ TM. Xét thấy hành vi của T và T1 đã vi phạm khoản 1 Điều 24 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, Cơ quan điều tra đã chuyển đến Công an thành phố Bắc Kạn để xem xét xử lý hành chính về hành vi “Mua dâm” là có căn cứ.

Đối với Lò Thị V và Nguyễn Thị H là người có hành vi bán dâm cho Hà Hải T và Nông Văn T1 vào ngày 27/5/2022 tại nhà nghỉ TM. Xét thấy hành vi của V và H đã vi phạm khoản 1 Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, Cơ quan điều tra đã chuyển đến Công an thành phố Bắc Kạn để xem xét xử lý hành chính về hành vi “Bán dâm” là có căn cứ.

Trong vụ án này, có bà Đinh Thị L là chủ nhà nghỉ TM nhưng bà L không biết việc Lò Thị V và Nguyễn Thị H bán dâm tại nhà nghỉ do bà L quản lý nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý về hình sự. Tuy nhiên, bà Đinh Thị L là chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ nhưng không thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý an ninh trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện nên Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ việc đến Công an thành phố Bắc Kạn để xem xét xử lý hành chính là có căn cứ.

[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[7] Về vật chứng trong vụ án:

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 sim; 01 (một) bao cao su nhãn hiệu Gsmall chưa qua sử dụng; 01 (một) căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị H và số tiền 3.386.000đ (ba triệu ba trăm tám mươi sáu nghìn đồng) tạm giữ của Nguyễn Thị H. 13 (mười ba) bao cao su nhãn hiệu HA THIN vỏ màu xanh dương chưa qua sử dụng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL máy có phím bấm, đã qua sử dụng, bên trong không gắn thẻ sim tạm giữ của Tô Thị D và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng, đã qua sử dụng bên trong gắn 01 sim tạm giữ của Lò Thị V. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên ngày 17/8/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị H, Tô Thị D và Lò Thị V. Xét thấy việc trả lại các đồ vật, tài sản nêu trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị H, Tô Thị D và Lò Thị V là có căn cứ.

- Đối với: 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 103 nhà nghỉ TM); 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 104 nhà nghỉ TM); 03 (ba) sim điện thoại (xác sim) có bên trong 02 (hai) chiếc điện thoại di động “Gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng của Tô Thị D; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83, mặt lưng màu vàng đồng của Nguyễn Thị H”. Tất cả đều không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng, đã qua sử dụng tạm giữ của Tô Thị D; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83, mặt lưng màu vàng đồng, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Thị H. Những vật chứng trên được dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu hoá giá sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) là tiền có được từ hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Truy thu số tiền 160.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng) là số tiền bị cáo Tô Thị D đã hưởng lợi từ việc môi giới mại dâm để sung quỹ Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 360.000đ (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) theo biên lai số 0002083 ngày 09/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn để thi hành án cho bị cáo Tô Thị D.

[8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt và xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tô Thị D phạm tội Môi giới mại dâm".

*Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 328; Điều 65; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Tô Thị D 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 103 nhà nghỉ TM); 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu HA màu xanh và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu tại phòng 104 nhà nghỉ TM); 03 (ba) sim điện thoại (xác sim) có bên trong 02 (hai) chiếc điện thoại di động “Gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83, mặt lưng màu vàng đồng”.

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS Max màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83, mặt lưng màu vàng đồng, đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền: 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/9/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

- Truy thu số tiền 160.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng) là số tiền bị cáo Tô Thị D đã hưởng lợi từ việc môi giới mại dâm để sung quỹ Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 360.000đ (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) theo biên lai số 0002083 ngày 09/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn để thi hành án cho bị cáo Tô Thị D.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tô Thị D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về