Bản án về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ số 815/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 815/2023/HS-PT NGÀY 24/10/2023 VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 24 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 283/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Võ Thái H do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bà Trần Thị Y là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2022/HS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Bị cáo có kháng cáo: Võ Thái H, sinh năm 1966 tại Hậu Giang; Nơi đăng ký thường trú: Đường N, Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Chuyên viên Ban quản lý công trình công cộng huyện C; Chức vụ trước khi phạm tội: nguyên Cán sự, Tổ trưởng tổ cấp giấy CNQSDĐ Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện C; nguyên Giám đốc Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện C; nguyên Trưởng phòng Tài nguyên – Môi trường huyện C; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha là Nguyễn Văn P (đã chết); Mẹ là Bùi Thị B (đã chết); Vợ là Trần Thị Y, sinh năm: 1965; Có 02 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1997; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giam ngày 19-8-2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại ngày 24-8-2020 đến nay, (có mặt), - Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Bùi Khắc T – Công ty L1 thuộc đoàn luật sư thành phố H (có mặt).

- Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân huyện C. Địa chỉ: B T, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Văn M – Chuyên viên phòng T. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Bà Trần Thị Y, sinh năm 1965. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

2. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1963. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

3. Ông Trần Văn T1, sinh năm 1967. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt).

4. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1983. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

5. Ông Trần Như D, sinh năm 1985. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

6. Bà Hoàng Thị H1, sinh năm 1983. Địa chỉ: Căn hộ D, số B N, phường T thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

7. Bà Võ Thị Xuân D1, sinh năm 1979. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

8. Ông Nguyễn Kỳ S1, sinh năm 1955. Địa chỉ: 1 L, huyện N, thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt).

9. Ông Huỳnh Văn X, sinh năm 1968. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt).

10. Ông Hồ Văn V1, bà Huỳnh Phượng T2. Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt).

11. Ông Nguyễn Văn H2, bà Nguyễn Thị Thanh H3. Địa chỉ: Khu dân cư 5, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 4/2005 đến năm 2017, bị cáo Võ Thái H (sinh năm 1966) được lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện C (UBND huyện), Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C (Phòng TNMT huyện) điều động, phân công, giao thực hiện nhiệm vụ là Cán sự, Tổ trưởng Tổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), phụ trách nhóm 1 theo Chương trình triển khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ năm 2007 của Phòng TNMT huyện; được lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh B, UBND huyện điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong việc giải quyết hồ sơ kê khai, đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ của hộ gia đình bà Trần Thị Y (vợ của Võ Thái H) đối với diện tích đất 1.982m2 thuộc thửa 1/144 (thửa mới 225) tờ bản đồ số 19; diện tích 735,8m2 + 572,2m2 thuộc thửa 1/144 (thửa mới 51 và 52), tờ bản đồ số 19 (tờ mới 20) tại đường H (Hương lộ 2 cũ), Khu dân cư số 03 và diện tích đất 989,5m2 thuộc thừa 1/52, tờ bản đồ số 22 tại đường N, Khu dân cư S thuộc huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Võ Thái H và một số cá nhân liên quan thuộc Phòng TNMT huyện, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện, UBND huyện C đã có hành vi sai phạm làm trái công vụ về quy định pháp luật đất đai, thiếu kiểm tra, đối chiếu và quản lý trong thực hiện nhiệm vụ được giao dẫn đến việc UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ không đúng quy định cho gia đình Võ Thái H và bà Trần Thị Y đối với 03 diện tích đất (1.982m2, 735,8m2 và 572,2m3) tại đường H, Khu dân cư S, huyện C gây thiệt hại cho Nhà nước là giá trị QSDĐ của 03 diện tích đất nêu trên (tính tại thời điểm tháng 12/2018) với tổng số tiền 1.236.418.400 đồng.

Quá trình điều tra đã làm rõ Võ Thái H lợi dụng quyền hạn nhiệm vụ được giao khi thực hiện chương trình triển khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ năm 2007 làm trái công vụ về pháp luật đất đai theo hướng có lợi cho gia đình mình để được cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 1.982m, gây thiệt hại cho Nhà nước về giá trị QSDĐ với số tiền 800.643.200 đồng.

Hành vi sai phạm cụ thể như sau:

Ngày 19/10/1999, ông Võ Hùng B1 (sinh năm 1964) được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ tổng diện tích 4.945m2 tại Khu dân cư S, huyện C. Ngày 26/9/2001, bà Trần Thị Y (sinh năm 1965) ký hợp đồng nhận chuyển nhượng QSDĐ với ông Võ Hùng B1 diện tích đất 1.624m (trong đó: 788m2 thuộc thửa 135 và 836 m2 thuộc thửa 136), tờ bản đồ 19 tại Hương lộ B (nay là đường H), Khu dân cư S, huyện C (BLĐT 1300, 1301). Đến ngày 15/11/2001, bà Y được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với hai thửa đất trên (BLĐT 1306).

Do diện tích 788m2 thuộc thửa 135 được ông Trương Thanh V2 (sinh năm 1966, trú tại Khu dân cư S, huyện C) canh tác sử dụng trước đó nhưng UBND huyện cấp nhằm cho ông B1 (đã chuyển nhượng cho bà Y) nên ngày 22/3/2005, UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Trương Thanh V2 đối với diện tích 788m2 thuộc thừa 135 và điều chỉnh giảm trong giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho bà Y được quyền sử dụng diện tích 836m2 thuộc thửa 136. Trong hồ sơ điều chỉnh cấp giấy chứng nhận QSDĐ trên, có thể hiện biên bản ngày 28/02/2005 về kiểm tra hiện trạng diện tích 788m2 thuộc thừa 135 do Phòng Kinh tế huyện Côn Đảo lập (có chữ ký xác nhận của bà Y) xác định: “Phía Nam giáp rừng tự nhiên” (BLĐT 2233). Sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông B1, gia đình H, bà Y tự ý lẫn, chiếm các diện tích đất có rừng tự nhiên phòng hộ (đang do Nhà nước quản lý) tiếp giáp phía Nam với diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông B1 rồi kê khai thời điểm bắt đầu sử dụng đất không đúng thực tế đối với diện tích 1.982m2 (sử dụng năm 1998), các diện tích đất 735,8m + 572,2m (sử dụng năm 1999) để đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ và đã được UBND huyện cấp giấy các diện tích đất trên. Ngoài ra, gia đình H, bà Y còn tự ý lấn, chiếm kế khai diện tích 989,5m2 tại đường N, Khu dân cư S, huyện C sử dụng năm 1998 – 1999 không đúng thực tế để đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ do bị phát hiện, tố giác.

Về nguồn gốc đất theo hồ sơ địa chính:

Theo Sổ mục kê, Bản đồ địa chính huyện C được thành lập năm 1998, phê duyệt ngày 20/01/1999 (BLĐT 2347, 2349): thửa đất số 1/144 (thừa mới số 225), tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982 m2 và thửa đất số 1/144, tờ bản đồ số 19 (thửa mới số 51 và 52, tờ bản đồ số 20) diện tích 735,8m2 + 572,2m, tên chủ sử dụng đất ghi UBND huyện C; đất có rừng tự nhiên phòng hộ.

Về quy hoạch sử dụng đất:

- Đối chiếu Bản đồ quy hoạch chi tiết 1/2000 Trung tâm Côn Đảo được UBND tỉnh B phê duyệt tại Quyết định số 964/QĐ.UB ngày 02/5/1998 (quy hoạch chi tiết 1/2000) và Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 – 2010 của huyện C được UBND tỉnh B phê duyệt tại Quyết định số 1744/QĐ-UBND ngày 23/5/2008 (BLĐT 1466 – 1471) thì:

+ Vị trí thừa đất số 1/144 (thừa mới số 225), tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982 mẻ và thửa đất số 1/144, tờ bản đồ số 19 (thửa mới số 51 và 52, tờ mới số 20) diện tích 735,8m2 + 572,2m2 được quy hoạch là đất có rừng tự nhiên phỏng hộ (ký hiệu RPN).

+ Vị trí thửa đất số 1/52, tờ bản đồ số 22, diện tích 989,5m2 được quy hoạch là đất ở tại nông thôn (ký hiệu ONT).

- Đối chiếu Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, Kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu (2011 – 2015) huyện C được UBND tỉnh B phê duyệt tại Quyết định số 587/QĐ-UBND ngày 20/3/2014 (BLĐT 1285) thì: Vị trí thửa đất số 1/144 (thừa mới số 225), tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982 m2; thửa đất số 1/144, tờ bản đồ số 19 (thửa mới số 51 và 52, tờ mới số 20) diện tích 735,8m2 + 572,2m2; thửa đất số 1/52, tờ bản đồ số 22, diện tích 989,5m2 đều được quy hoạch là đất sản xuất kinh doanh (ký hiệu SKC).

1. Hành vi sai phạm trong việc giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất số 1/144 (thửa mới số 225), tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982m2 tại đường H, Khu dân cư S, huyện C Ngày 01/4/2005, Võ Thái H là Cán sự, được điều động từ Phòng Kinh tế huyện đến công tác tại Phòng TNMT huyện, phụ trách: Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai; Thỏa thuận địa điểm, vị trí đất cho các tổ chức; Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất... và một số nhiệm vụ do lãnh đạo Phòng phân công liên quan đến lĩnh vực phụ trách (BLĐT 1520).

Theo Chỉ thị số 11/2005/CT-UB ngày 29/3/2005 của UBND tỉnh B về việc thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách để hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận QSDĐ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tại mục 4 của Chỉ thị yêu cầu UBND xã và Phòng Tài nguyên – Môi trường thuộc các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh căn cứ quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt xác định thời điểm phê duyệt quy hoạch, việc phù hợp hay không phù hợp quy hoạch để xem xét việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho người sử dụng đất theo quy định tại Điều 48 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ (BLĐT 2287).

Ngày 17/5/2006, UBND huyện có văn bản số 427/UBND về tiếp tục chẩn chính công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai, nhà ở trên địa bản huyện; Phòng TNMT huyện có Thông báo số 161/TB-TNMT ngày 13/6/2006 về việc đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ.

Biết được chủ trương trên, H trực tiếp viết đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ (theo mẫu 04/ĐK) ghi ngày 21/6/2006 thể hiện bà Trần Thị Y đứng tên người sử dụng đất, diện tích 1.982m2, thửa đất 194 (liền kể thừa 136), tờ bản đồ số 19 tại đường H; mục đích sử dụng đất: cây ăn quả; nguồn gốc sử dụng đất: nhận chuyển nhượng và mở rộng sản xuất nông nghiệp. Nhưng H không ghi cụ thể về “thời điểm bắt đầu sử dụng đất” theo hướng dẫn tại điểm 2.7 của mẫu đơn 04/ĐK; sau đó, H đưa cho bà Y ký tên người viết đơn. Ngày 10/7/2006, H trực tiếp nộp đơn thông qua Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện (BLDT 1308).

Trên cơ sở tổng hợp tài liệu, hồ sơ kê khai của các hộ gia đình đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ, Phòng TNMT huyện đối chiếu quy hoạch chi tiết 1/2000 phê duyệt ngày 02/5/1998 và quy hoạch N – L – Thủy lợi huyện C giai đoạn 2002 – 2010 được UBND tỉnh B phê duyệt tại Quyết định số 9824/QĐ-UB ngày 11/12/2002 để báo cáo, đề xuất UBND huyện thực hiện trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định. Ngày 21/9/2006, Nguyễn Văn V (sinh năm 1953). Trưởng phòng TNMT huyện ký ban hành Báo cáo số 244/BC.TNMT về kết quả tổng hợp các trường hợp đủ điều kiện, không hoặc chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ và đề xuất UBND huyện giao cho Phòng TNMT huyện lập hồ sơ, trích lục hoặc đo đạc bổ sung và tách thửa bản đồ địa chính trình UBND huyện cấp giấy sau thời gian niêm yết công khai (nếu không có tranh chấp); kèm theo báo cáo là Danh sách số 244a/DS-TNMT về việc tổng hợp kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ và Danh sách số 244b/DS-TNMT về phân loại hồ sơ đủ điều kiện, không hoặc chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ; trong đó:

Tại số thứ tự số 53 của Danh sách 244a/DS-TNMT thể hiện nội dung: “Bà Trần Thị Y: thừa số 194 kế thừa 136, tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982m; hiện trạng mục đích sử dụng: Quả + LN; nguồn gốc sử dụng: mở rộng diện tích; thời điểm sử dụng: 2001; tình trạng tranh chấp: không; lý do đủ điều kiện cấp giấy CNQSDĐ: quy hoạch Nông Lâm nghiệp vườn rừng; lý do không đủ điều kiện cấp giấy CNQSDĐ: đo đạc, tách thửa, chưa có chủ trương của UBND huyện C”. Tại số thứ tự 25 Danh sách 244b/DS-TNMT thể hiện nội dung: “Bà Trần Thị Y: thửa số 194 kế thừa 136, tờ bản đồ số 19, diện tích 1.982m2; hiện trạng mục đích sử dụng: Quả + LN; nguồn gốc sử dụng: mở rộng diện tích; thời điểm sử dụng: 2001; tình trạng tranh chấp: không; trường hợp sử dụng đất sau quy hoạch nhưng phù hợp với quy hoạch: 1.982m2" (BLĐT 1487 - 1489).

Ngày 26/12/2006, UBND huyện có văn bản số 1180/UBND-VP giao cho Phòng T khẩn trương hoàn tất các thủ tục, cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo thẩm quyền của UBND huyện, cho các hộ đủ điều kiện theo như đề xuất của Phòng T tại Báo cáo số 244/BC.TNMT ngày 21/9/2006 (BLĐT 1486).

Thấy hồ sơ của gia đình mình thể hiện thời điểm sử dụng diện tích đất 1.982m2 là năm 2001 sau quy hoạch chi tiết 1/2000 (quy hoạch sử dụng đất), H đã trực tiếp viết đơn ghi ngày 02/01/2007 đề nghị chuyển đổi vị trí đất và công nhận QSDĐ nhằm chứng minh thời điểm sử dụng đất của gia đình trước quy hoạch chi tiết 1/2000 để có cơ sở được cấp giấy, nội dung đơn thể hiện: Năm 1996, H được UBND huyện tạm giao 2.000m2 tại khu vực A để trồng cây lâu năm. Cuối năm 1997, Nhà nước thu hồi (không bồi thường) đối với diện tích đất nêu trên để xây dựng Doanh trại quân đội (C8) nên gia đình H đã di dời cây về trồng tại khu đất có diện tích khoảng gần 2.000m, phía sau diện tích nhận chuyển nhượng của ông Võ Hùng B1 và đề nghị được cấp giấy chứng QSDĐ đối với diện tích này (BLĐT.1309). H khai sau khi viết đơn đã tự nộp cho phỏng TNMT huyện để bổ sung vào hồ sơ kê khai của gia đình H (kèm theo Thông báo số 36/TB.UB ngày 15/02/1996 của UBND huyện về việc thỏa thuận tạm giao đất), không thông qua bộ phận tiếp nhận hồ sơ (BLĐT 133 – 135).

Ngày 08/01/2007, Phòng TNMT huyện triển khai kế hoạch cấp giấy chứng nhận QSDĐ năm 2007 và phân công lực lượng tham gia gồm: Nguyễn Văn V – Trưởng phòng; Võ Thái H – Cán sự (Tổ trưởng); Võ Thị Xuân D1 (sinh năm 1979). Chuyên viên; Trần Văn T1 (sinh năm 1967)– Cán sự; Nguyễn Thị S (sinh năm 1983) – công chức tập sự. Ngày 09/01/2007, Nguyễn Văn V ký ban hành Chương trình số 07/CT.TNMT triển khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ năm 2007, giao nhiệm vụ cho Võ Thái H làm Tổ trưởng Tổ cấp giấy chứng nhận QSDĐ, Chủ trì nhóm 1 cùng Võ Thị Xuân D1 – Chuyên viên Phòng TNMT huyện, với nhiệm vụ thực hiện việc đi thực địa, lập hồ sơ xác minh và họp lấy ý kiến nhân dân tại khu dân cư (trong đó có khu dân cư số 03), cụ thể: “Lập biên bản đo đạc ranh giới thửa đất, xác minh thực địa; đối chiếu quy hoạch Nông – L – T3, quy hoạch chi tiết 1/2000, 1/500; Hướng dẫn Người đăng ký xin cấp giấy CNQSDĐ lập Bản tưởng trình nguồn gốc đất, Bản cam kết về việc sử dụng đất; Họp dân tại khu dân cư lấy ý kiến nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, xác nhận các hộ tử cận ranh giới thửa đất; Xử lý nội nghiệp” (BLĐT 1497 – 1500).

Ngày 11/01/2007, H và Võ Thị Xuân D lập biên bản đo đạc ranh giới thừa đất bà Y kê khai đề nghị cấp giấy diện tích 1.982m2 thể hiện hiện trạng đất: “chuối, dừa, xoải, mít, xà cừ”. H (cán bộ đo vẽ), bà Y và ông Nguyễn Kỳ S1 (sinh năm 1955, Trưởng khu 3) ký tên vào biên bản; Võ Thị Xuân D không ký tên vào biên bản. Quá trình điều tra, D1 cho rằng lý do không ký tên vào biên bản trên vì khi tiến hành đo đạc thực địa hiện trạng đất chỉ có cây rừng tự nhiên, cây tạp, không có loại cây trồng nào như hồ sơ gia đình bà Y kê khai (BLĐT 255, 256, 262, 264, 265). Ông S1 cho rằng ông không trực tiếp tham gia đo đạc thực địa như biên bản thể hiện, việc ông ký vào biên bản do đã được lập sẵn; thời điểm bà Y nhận chuyển nhượng đất của ông B1 thì diện tích tiếp giáp phía sau là đồi cát, hoang hóa chưa có ai sử dụng (BLĐT 406 - 411).

Thực hiện thủ tục kê khai, bà Y viết Bản cam kết về việc sử dụng đất và Bản tưởng trình nguồn gốc diện tích đất 1.982m2 (ghi ngày 11/01/2007) đều thể hiện thời gian sử dụng đất năm 1998, nguồn gốc do di dời cây trồng từ khu vực A về trồng theo như nội dung đơn H đã viết trước đó (BLĐT 1315, 1317). Bà Y cho rằng việc viết các nội dung vào Bản cam kết, Bản tường trình là được tổ cấp giấy hướng dẫn và trên cơ sở thống nhất nội dung với chồng là Võ Thái H.

Ngày 17/01/2007, Khu dân cư số 3 phối hợp với Nhóm 1 Tổ cấp giấy Phòng TNMT huyện họp tổ dân cư lấy ý kiến xác minh nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y, biên bản ghi nhận: “sử dụng ổn định, không tranh chấp; đề nghị xem xét cấp giấy CNQSDĐ”, Võ Thái H ký tên với tư cách “Chủ tọa", Võ Thị Xuân D kỷ tên với tư cách “Thư ký”, ông Nguyễn Kỳ S1 ký tên với tư cách “đại diện Ban điều hành khu dân cư số 03" xác nhận “đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp”. Tuy nhiên, biên bản không thể hiện nội dung kê khai của chủ đất (bà Y) về nguồn gốc đất (trong khi các biên bản xác minh của các trường hợp khác tại khu dân cư số 3 đều thể hiện nội dung chủ đất trình bày về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất), không thể hiện việc lấy ý kiến, xác minh nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất diện tích 1.982m2 theo yêu cầu tại Chương trình số 07 và quy định pháp luật về đất đai.

Sau khi thực hiện nhiệm vụ theo Chương trình số 07, H báo cáo kết quả kiểm tra, xác minh các hồ sơ kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho lãnh đạo Phòng TNMT huyện (BLĐT 173, 174), nhưng H không báo nội dung mâu thuẫn về thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y trong Bản cam kết, Bản tường trình (thể hiện đất sử dụng năm 1998) với Danh sách 244a, Danh sách 2445 ngày 21/9/2006 của Phòng TNMT huyện (thể hiện đất sử dụng năm 2001).

Ngày 22/02/2007, ông Nguyễn Kỳ S1 đại diện khu dân cư số 03 ký xác nhận vào Bản tưởng trình nguồn gốc đất ghi ngày 11/01/2007 của bà Y.

Ngày 28/02/2009, Nguyễn Văn V ký ban hành Danh sách số 54/DSTB- TNMT công khai các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ, trong đó thể hiện tại số thứ tự 10 Tên người sử dụng đất: Trần Thị Y, tờ bản đồ 19; thửa đất 1 phần/144; diện tích 1.982m2; mục đích sử dụng: đất trồng cây ăn quả; nguồn gốc và thời điểm bắt đầu sử dụng: mở rộng diện tích – sử dụng năm 1998" (BLDT 1319).

Sau khi công khai danh sách trên không có khiếu nại, ngày 19/4/2007, Trần Văn T1 đại diện Phòng TNMT huyện (làm thay nhiệm vụ cán bộ địa chính xã), ký xác nhận vào “Mục II” đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ ghi ngày 21/6/2006 của bà Trần Thị Y nội dung “đất sử dụng từ năm 1998, không tranh chấp; trước quy hoạch”. Cùng ngày, Nguyễn Văn V ký xác nhận vào các tài liệu trong hồ sơ cấp giấy của bà Y gồm: Đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ; bản cam kết về việc sử dụng đất; bản tưởng trình nguồn gốc đất; biên bản họp tổ dân cư. Sau đó, Nguyễn Văn V ký Tờ trình số 56 /TTr-TNMT ngày 19/4/2009 xác định hồ sơ của bà Trần Thị Ý đủ điều kiện cấp giấy theo quy định điểm a, b khoản 2 Điều 48 Nghị định 181/2004/QĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình bà Y và ký nhảy tham mưu UBND huyện giấy chứng nhận QSDĐ số AH648031 (kèm theo các tài liệu liên quan). Ngày 02/5/2007, UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AH648031 cho bà Trần Thị Y diện tích 1.982m2 thuộc thừa 225, tờ bản đồ số 19 tại đường H, huyện C.

Sau khi được cấp giấy, bà Y thực hiện các thủ tục đề nghị và được công nhận hợp thửa đối với diện tích 1.982m và diện tích 836m2 (nhận chuyển nhượng của ông B1). Sau đó, bà Y tiếp tục làm thủ tục đề nghị tách thửa và được UBND huyện cấp 03 giấy chứng nhận QSDĐ vào ngày 05/9/2009 gồm: diện tích 1.260,3m2 thuộc thửa 234; diện tích 1.057,7m2 thuộc thửa 244 và diện tích 500m2 thuộc thửa 235 tại đường H, huyện C. Ngày 13/8/2009, bà Y chuyển nhượng QSDĐ diện tích 500m2 cho ông Huỳnh Văn X (sinh năm 1968, trú tại Khu dân cư S, huyện C) với giá 25.000.000 đồng. Ngày 29/10/2009, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện chỉnh lý trên giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho bà Y để ông X được quyền sử dụng diện tích đất 500m2 trên (BLĐT 1373 – 1375, 1388). Sau đó, ông X đã chuyển nhượng lại diện tích 500m2 trên cho người khác.

Quá trình điều tra, Võ Thái H và bà Trần Thị Y cho rằng thời điểm gia đình bắt đầu sử dụng diện tích 1.982m2 vào năm 1998 sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông Võ Hùng B1 được kê khai tại Bản tường trình về nguồn gốc đất, Bản cam kết về việc sử dụng đất do bà Y viết là đúng thực tế. Nhưng tại các bản tự khai, kết quả điều tra, làm việc đối với Võ Thái H, bà Trần Thị Y và các đơn của bà Y kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ thu thập được có trong hồ sơ vụ án thì H và bà Y khai thời điểm mua đất của ông B1 khoảng năm 1999, 2000 sau đó mới khai phá sử dụng diện tích đất 1.982m2 (BLĐT 113, 114, 133-135, 212, 228, 229, 236 – 243). Ông Võ Hùng B1 khẳng định thời điểm chuyển nhượng đất cho gia đình bà Y là năm 2001, sau khi gia đình ông B1 được cấp giấy chứng nhận QSDĐ (BLĐT 412 – 414). Căn cứ vào các tài liệu chứng cử thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định gia đình H, bà Y tự ý lấn, chiếm sử dụng diện tích đất 1.982m2 tại đường H, huyện C sau thời điểm nhận chuyển nhượng đất của ông Võ Hùng B1 ngày 26/9/2001; việc gia đình bà Y kê khai trong hồ sơ cấp giấy là không đúng thực tế.

Kết quả giảm định hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ:

1. Văn bản số 3247/STNMT-CCQLĐĐ ngày 07/6/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về việc kết quả giám định hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ đối với diện tích đất 1982m2 theo đề nghị của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh (BLĐT 58, 59), xác định:

“Huyện C là đơn vị hành chính cấp huyện, không có đơn vị hành chính cấp xã. Do đó, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C ngoài những chức năng nhiệm vụ theo quy định còn phải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường.

Đối với diện tích 1982m2 lần, chiêm sau thời điểm ngày 26/9/2001 (sau thời điểm quy hoạch chi tiết 1/2000 Trung tâm C đã được UBND tỉnh B-VT phê duyệt tại Quyết định số 964/1998/QĐ-UB ngày 02/5/1998), không phù hợp với quy hoạch (quy hoạch đất rừng phòng hộ). Do đó, trường hợp này không đủ điều kiện để cấp giấy CNQSDĐ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Nghị định 181/2004/QĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ (tại thời điểm cấp giấy áp dụng theo Luật Đất đai năm 2003)”.

2. Văn bản số 4336/STNMT-CCQLĐĐ ngày 26/7/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về việc giải thích một số nội dung trong kết quả giám định theo đề nghị của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh, xác định: “Về nội dung thực hiện trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (diện tích 1982m2) thì Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C thực hiện chưa đầy đủ và chưa đúng theo quy định.

3. Văn bản số 66/STNMT-CCQLĐĐ ngày 06/01/2020 của Sở T về việc giải thích một số nội dung trong kết quả giám định theo đề nghị của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh (BLĐT 61, 62), xác định nội dung thực hiện trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ của Phòng TNMT huyện chưa đầy đủ và chưa đúng quy định, vì:

- Đối với biên bản họp tổ dân cư ngày 17/01/2007: “Về thành phần ghi tại trang 1 và trang 2 của Biên bản là không thống nhất. Thành phần tham dự không có người dân tham gia họp, nhưng lại có nội dung ghi ý kiến chung của người dân trong tổ dân cư là không phù hợp, không đúng như biên bản nêu; Nội dung của biên bản với mục đích ghi là “xác minh về nguồn gốc đất của bà Trần Thị Y", tuy nhiên kết quả làm việc thể hiện trong biển bản này ghi là "Đất sử dụng ổn định không có tranh chấp". Nội dung này chỉ xác định về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, không phải là nguồn gốc đất. Theo quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm này (điểm a, khoản 2 Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ) quy định UBND xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt...”.

- Đối với biên bản đo đạc ranh giới thửa đất ngày 11/01/2007: “Tại tiểu mục 7.17 mục 7 Quy phạm thành lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1:500, 1:1000, 1:2000, 15000, 1:10000 và 1: 25000 được ban hành kèm theo Quyết định số 720/1999/QĐ-ĐC ngày 30/12/1999 của T6 (nay là Bộ T7) thì khi đo vẽ chi tiết bản đồ địa chính phải lập biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo mẫu quy định. Việc Phòng Tài nguyên và Môi trưởng huyện C tổ chức đo đạc xác minh ranh giới thửa đất và lập biên bản đo đạc ranh giới thửa đất (theo hiện trạng sử dụng đất) ngày 11/01/2007 là không đúng quy định”.

Kết quả giám định chữ viết trên hồ sơ cấp giấy diện tích 1982m2: Kết luận giám định số 1735/PC09-Đ3 ngày 10/9/2019 của Phòng K Công an tỉnh B-VT (BLĐT 73), kết luận:

- Nội dung dưới mục “Đại diện phòng TN&MT cán bộ đo về" trên Biên bản đo đạc ranh giới thửa đất để ngày 11/01/2007 bị tẩy xóa, đọc được nội dung nguyên thủy ban đầu là “Võ Thị Xuân D1”.

- Chữ viết trên “Bản cam kết về việc sử dụng đất" đề ngày 11/01/2007 và “Bản tưởng trình nguồn gốc đất” đề ngày 11/01/2007 do cùng một người viết ra (bà Trần Thị Y).

- Chữ viết trên “Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" mang tên Trần Thị Y ghi ngày 21/6/2006 (trừ chữ viết dưới mục “Phần ghi của người nhận hồ sơ") với chữ viết trên “Đơn xin chuyển đổi vị trí đất và công nhận QSDĐ” để ngày 02/01/2007 do cùng một người viết ra (là Võ Thái H). Kết quả định giá tài sản:

Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 26/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS xác định: Thửa đất số 225, tờ bản đồ số 19, diện tích 1982m2 (đất trồng cây lâu năm); Giấy CNQSDĐ số AH648031 do UBND huyện C cấp ngày 02/5/2007 cho bà Trần Thị Y có giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm tháng 12/2018 là 800.643.200 đồng (BLĐT 77).

2. Hành vi sai phạm trong việc giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất số 1/144 (thừa mới số 51, 52), tờ bản đồ số 19 (tờ mới số 20), diện tích 735,8m2 và 572,2m2 tại đường H, Khu dân cư S, huyện C:

Năm 2009, Võ Thái H giữ chức vụ Phó Trưởng phòng TNMT huyện Côn Đảo.

Tháng 11/2010, H được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện C.

Sau khi được cấp QSDĐ đối với diện tích 1.982m2 nêu trên, Võ Thái H và bà Trần Thị Y tiếp tục kê khai phần diện tích tiếp giáp phía Nam của thửa đất vừa được cấp để đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ, cụ thể:

Ngày 18/3/2009, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện nhận đơn của bà Trần Thị Y ghi ngày 17/3/2009 xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích khoảng 2.000m2 (tờ bản đồ 19), tự kê khai mục đích sử dụng đất: sản xuất nông nghiệp, nguồn gốc đất: tự khai phá năm 2001. Sau đó, bà Y có Đơn tường trình về việc sử dụng đất ghi ngày 12/5/2009, thể hiện: năm 2000 có nhận chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp của ông Võ Hùng B1 và khai phá mở rộng thêm phần đất liền kề phía sau để trồng trọt và chăn nuôi sử dụng cho đến nay, không tranh chấp, diện tích 1.222m3.

Ngày 03/7/2009, Khu dân cư số 03 tổ chức lấy ý kiến về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y, kết quả ghi nhận: nguồn gốc tự khai phá năm 2000, không có tranh chấp. Ngày 15/5/2009, Văn phòng Đăng ký QSDĐ (do Trần Văn T1 – Cán bộ đo về) phối hợp với Khu dân cư số 03 (do ông Lưu Phước Đ đại diện) tiến hành lập biên bản đo đạc, xác minh ranh giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất của gia đình bà Y đối với diện tích 1.222m2 thuộc thừa 1/144 (BLĐT 2276, 2277). Ngày 11/9/2009, Văn phòng Đăng ký QSDĐ công khai Danh sách số 144/DSTN-VPĐKQSDĐ về các trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ, trong đó thể hiện: hộ bà Trần Thị Y sử dụng diện tích 1.222m2 đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thừa 144, tờ bản đồ số 19, có thời điểm sử dụng năm 2000, nguồn gốc tự khai, không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ, vì khu vực này quy hoạch là đất trồng rừng phỏng hộ. Sau đó, bà Y có đơn khiếu nại nội dung danh sách công khai trên để yêu cầu xem xét cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Ngày 31/12/2009, Văn phòng Đăng ký QSDĐ có văn bản số 230/VPĐKQSDĐ (do Nguyễn Thị S tham mưu, dự thảo) bác đơn khiếu nại của bà Y do đất sử dụng không phù hợp với quy hoạch.

Trên cơ sở các văn bản triển khai, chỉ đạo của Chính phủ và UBND tỉnh, UBND huyện ban hành Thông báo 76/TB-UBND ngày 20/7/2012 và Thông báo số 181/TB-UBND ngày 07/11/2013 về việc kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở (QSHNO) và tài sản khác gắn liền với đất.

Ngày 13/11/2013, bà Y tiếp tục có đơn ghi ngày 12/11/2013 đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 1.980m2 thuộc một phần thừa 15, một phần thừa 38, tờ bản đồ số 20, kê khai thời điểm bắt đầu sử dụng năm 2000, nguồn gốc: nhận chuyển nhượng của ông Võ Hùng B1 và khai phá thêm (tại vị trí đất diện tích 1.222m2 mà bà Y đã kê khai đề nghị cấp giấybị bác trước đó); đơn được H nộp tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện.

Ngày 25/4/2014, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện (do Trần Như D đại diện) chủ trì phối hợp với Phòng TNMT huyện (do bà Trần Thị H4 đại diện) và Khu dân cư số 3 (do ông Nguyễn Anh T4, Trưởng Khu đại diện) tiến hành kiểm tra, lập biên bản đo đạc ranh giới thửa đất, xác minh hiện trạng, thể hiện bà Y kế khai diện tích đất tự hkai phá sử dụng từ năm 1999. Trên cơ sở đó, Trần Như D vẽ sơ đồ vị trí thửa đất tỷ lệ 1/1000 đối với thừa 51, diện tích 735,8m và thừa 52, diện tích 572,2m2.

Ngày 25/5/2014, bà Y có Đơn tưởng trình về việc sử dụng đất, thể hiện nguồn gốc: năm 1999 nhận chuyển nhượng của ông Võ Hùng B1 và tự khai phá sử dụng thêm.

Ngày 29/6/2014, Ban điều hành Khu dân cư số 03 tổ chức họp lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y. Biển bản họp thể hiện có 09 người dân tham gia ghi nhận: nguồn gốc, thời điểm bắt đầu sử dụng thửa đất 51, 52 do tự khai phá năm 1999; không tranh chấp. Kết quả này được Trần Văn T1, Phó Trưởng phòng TNMT huyện ký xác nhận thay thẩm quyền cấp xã (BLĐT 1360). Tuy nhiên, theo kết quả điều tra xác minh, những người dân này cho rằng việc lấy ý kiến chỉ đựa trên nội dung đơn của bà Y và không biết về nguồn gốc, thời điểm gia đình bà Y sử dụng diện tích đất này.

Sau đó, Trần Văn T1 ký ban hành Danh sách số 993/DSTB-TNMT ngày 03/12/2014 và Danh sách số 1085/DSTB-TNMT ngày 26/12/2014, công khai kết quả kiểm tra hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ, trong đó xác định: đất do bà Y kê khai tại thừa 51 và 52, tờ bản đồ 20, diện tích 735,8m2 và 572,2m, mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm, thời điểm sử dụng đất năm 1999, nguồn gốc tự khai phá, đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Hoàng Thị H1 là Cán bộ địa chính và Trần Văn T1 thuộc Phòng TNMT huyện ký xác nhận vào “Mục II. Xác nhận của UBND xã” thể hiện ngày 10/12/2014 tại đơn đề nghị cấp giấy của bà Y, nội dung: “phù hợp với hiện trạng sử dụng (về diện tích); nguồn gốc sử dụng đất: tự khai phá; thời điểm bắt đầu sử dụng đất: 1999 (phiếu lấy ý kiến KDC ngày 19/6/2014); không tranh chấp; đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo điểm a khoản 5 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP”.

Nguyễn Thị S - Phó Giám đốc và Trần Như D- Cán bộ thẩm tra Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện ký xác nhận vào “Mục III. Ý kiến của Văn phòng Đăng ký QSDĐ" thể hiện ngày 12/01/2015 tại đơn đề nghị cấp giấy của bà Y, nội dung: “Qua kiểm tra hỗ sơ xin cấp GCNQSDĐ, QSHNO và tài sản khác gắn liền với đất của hộ ông Võ Thái H, Văn phòng Đăng ký QSDĐ xét thấy hồ sơ của hộ ông đủ điều kiện cấp giấy theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 20 NDD43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ”.

Ngày 12/01/2015, Trần Như D tham mưu, soạn thảo cho Nguyễn Thị S ký Phiếu trình số 194/PT.VPĐKQSDĐ về việc thẩm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đề nghị Phòng TNMT huyện kiểm tra và có ý kiến về hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ của hộ Võ Thái H và vợ là bà Trần Thị Y; kèm theo các tài liệu liên quan (BLĐT 1363).

Ngày 23/3/2015, Hoàng Thị H1 được giao nhiệm vụ kiểm tra hồ sơ của hộ Võ Thái H và bà Trần Thị Y (theo phiếu trình của Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện) đã soạn thảo, tham mưu cho Trần Văn T1 ký Tờ trình số 60 /TTr-TNMT về việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ, đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình bà Trần Thị Y vì đủ điều kiện cấp giấy theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phú.

Ngày 12/5/2015, UBND huyện cấp 02 giấy chứng nhận QSDĐ đối với thừa 51 diện tích 735,8m2 và thừa 52 diện tích 572,2m, tờ bản đồ 20 cho gia đình bà Trần Thị Y, Võ Thái H.

Kết quả giảm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ:

1. Văn bản số 3247/STNMT-CCQLĐĐ ngày 07/6/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về kết quả giám định hồ sơ cấp Giấy CNQSDĐ đối với các diện tích đất 735,8m2 và 572,2m2 theo đề nghị của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh, xác định:

Phòng TNMT huyện chưa làm rõ về mục đích sử dụng đất và sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng. Theo văn bản số 3381/UBND- TNMT ngày 20/11/2018 của UBND huyện C thì 02 thửa đất (diện tích 572,2m2 + 735,8m2) có nguồn gốc: “lấn chiếm đất rừng” và “không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất”. Trường hợp này xác định người sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai (lấn, chiếm đất rừng) trước ngày 01/7/2014. Việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đại trước ngày 01/7/2014 được thực hiện theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Đối chiếu với quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy thì 02 thửa đất (diện tích 572,2m2 + 735,8m2) không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc UBND huyện căn cứ khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng theo quy định của pháp luật.

2. Văn bản số 17/CCQLĐĐ ngày 20/01/2020 của Chi cục Quản lý đất đai tỉnh B v/v cung cấp chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án đang điều tra theo đề nghị của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, tại mục 2 thể hiện: Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 70 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì UBND cấp xã (Phòng Tài nguyên và Môi trưởng huyện C) có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc: “xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch”. Như vậy, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C phải xác nhận nội dung “sự phù hợp với quy hoạch" tại Mục II. Xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn trong đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất .

Kết quả định giá tài sản:

Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 26/3/2019 của Hội đồng định giả tài sản trong TTHS (BLĐT 77) xác định:

- Thửa đất số 52, tờ bản đồ số 20, diện tích 572,2m2 (đất trồng cây lâu năm); Giấy CNQSDĐ do UBND huyện C cấp ngày 12/5/2015 cho Võ Thái H và Trần Thị Y có giá trị: Tại thời điểm cấp giấy: 78.619.400 đồng; Tại thời điểm tháng 12/2018: 190.753.800 đồng.

- Thửa đất số 51, Tờ bản đồ số 20, diện tích 735,8m2 (đất trồng cây lâu năm); Giấy CNQSDĐ do UBND huyện C cấp ngày 12/5/2015 cho Võ Thái H và Trần Thị Y có giá trị: Tại thời điểm cấp giấy: 100.804.600 đồng; Tại thời điểm thăng 12/2018 là 245.021.400 đồng.

3. Hành vi sai phạm trong việc giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất số 1/52, tờ bản đồ số 22, diện tích 989,5m tại đường N, Khu dân cư S, huyện C:

Gia đình Võ Thái H và bà Trần Thị Y được UBND huyện C tạm giao 300m tại đường N, Khu dân cư S, huyện C theo Thông báo số 146 TB.UB ngày 25/10/1996. Gia đình H làm nhà để ở và tiếp tục sử dụng các diện tích đất tiếp giáp với diện tích được tạm giao nêu trên đến năm 2001 thì đề nghị và được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 656,2m2 (trong đó có 300m2 đã được tạm giao); đến năm 2007, được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 130,1m2. Sau đó, gia đình H, bà Y lấn, chiếm sử dụng các diện tích đất trống tiếp giáp với các diện tích đất đã được cấp, kê khai sử dụng và đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ, gồm:

- Diện tích 150m2 (phía sau nhà), kê khai sử dụng từ năm 1997 (sau cơn bão số 05), sử dụng làm nhà kho chứa than, gạo; đến năm 2013 thì sửa lại thành 04 phòng nghỉ cho Doanh nghiệp S3 thuê;

- Diện tích khoảng 300m phía hông nhà, kê khai sử dụng từ năm 1999, làm nhà kho, nhà xưởng, bãi chứa phế liệu và 02 phòng ở; đến cuối năm 2010 thì sửa lại thành 10 phòng trọ cho doanh nghiệp S3 thuê - Diện tích khoảng 540m, kê khai sử dụng từ năm 1999 để trồng cây ăn quả; đến năm 2009 thì xây dựng 03 cây dù, 02 mái che để kinh doanh ăn uống, nước giải khát.

Các diện tích đất trên, gia đình H, bà Y đã 03 lần đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ nhưng chưa được cấp giấy, cụ thể như sau:

Ngày 16/3/2009, Võ Thái H làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 150m2. Sau khi thụ lý giải quyết, Văn phòng ĐKQSDĐ huyện C có văn bản số 117/VPĐKQSDĐ ngày 07/8/2009 xác định diện tích 150m2 đất không thể lập thủ tục trình cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy vì đã được phân lô quy hoạch và cấp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng (BLĐT 1412, 1414).

Ngày 17/3/2009, bà Y làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ đổi với diện tích 300m, mục đích sử dụng: Bãi chứa phụ tùng, trồng cây ăn quả, nguồn gốc ghi: được UBND huyện đồng ý ngày 05/8/1999. Sau khi thụ lý giải quyết, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện có Danh sách số 153/DSTB- VPĐKQSDĐ ngày 28/9/2009 công khai các trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ, theo đó phần diện tích 300m2 (thực tế đo đạc là 299,9m2) bà Y đề nghị không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận QSDĐ do không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất (BLĐT 1418 – 1420).

Ngày 08/10/2010, bà Y làm đơn khiếu nại tiếp tục đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 299,9m2 nêu trên. Ngày 31/12/2009, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện có văn bản số 230/VPĐKQSDĐ trả lời khiếu nại của bà Y, tiếp tục xác định diện tích đất bà Y đề nghị không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ vì không phù hợp quy hoạch (BLĐT 1427).

Ngày 11/11/2013, bà Y có đơn đề nghị cấp giấy CNQSDĐ đối với diện tích 947m. Sau khi thụ lý, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện lập biên bản đo đạc, xác minh ranh giới theo hiện trạng; họp tổ dân cư ngày 06/8/2014, kết quả: “không xác định được thời điểm sử dụng đất”. Ngày 14/01/2015, Phòng TNMT huyện ban hành Danh sách số 23/DSTB-TNMT công khai kết quả kiểm tra hồ sơ không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ: thể hiện phần diện tích bà Y kê khai sử dụng (theo đo đạc thực tế có diện tích 1.059m2) không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ theo quy định pháp luật đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, do không xác định được thời điểm sử dụng đất (BLĐT 1432, 1433).

Ngày 06/5/2016, bà Y tiếp tục có đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 947m2, tự kê khai nguồn gốc sử dụng đất là UBND huyện cho phép sử dụng theo đơn đề ngày 29/7/1998, đơn đề ngày 05/8/1999 và tự khai phá thêm. Ngày 14/6/2016, Văn phòng Đăng ký QSDĐ có trích lục bản đồ địa chính tỷ lệ 1/1000 ghi nhận diện tích 989,5m2; kết quả lấy phiếu ý kiến khu dân cư ngày 28/6/2016 xác định: nguồn gốc đất do Nhà nước quản lý, thời điểm bắt đầu sử dụng đất khoảng năm 2009 trong thời gian làm cổng hộp (BLĐT 1442, 1443) Ngày 11/7/2016, Phòng TNMT huyện tiếp tục phối hợp với Khu dân cư số 05 tiến hành xác minh nguồn gốc, thời điểm và quá trình sử dụng đất của hộ gia đình bà Y, ghi nhận một số ý kiến nêu: khoảng thời gian năm 2006-2008 phần đất bên hông nhà chưa được sử dụng để làm quán, chỉ có một số cây Tràm bông vàng và một số cây tự nhiên khác; một số ý kiến nêu không nắm được nguồn gốc và quá trình sử dụng đất (BLĐT 1444, 1445).

Ngày 12/12/2016, ông Đỗ Văn H5, Trưởng Khu dân cư S có báo cáo gửi Phòng TNMT huyện và UBND huyện C về một số nội dung liên quan đến thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y, đồng thời đề nghị Phòng TNMT huyện kiểm tra lại hồ sơ xây dựng để xác định thời điểm sử dụng đất.

Mặc dù kết quả họp khu dân cư chưa xác định được cụ thể thời điểm sử dụng đất của gia đình mình, nhưng Võ Thái H với chức vụ Trưởng Phòng TNMT huyện vẫn ký danh sách số 1462/DS-TNMT ngày 23/12/2016 công khai kết quả cấp GCNQSDĐ đối với hồ sơ của bà Y ghi nhận: “diện tích 989,5m ghi thời điểm sử dụng đất năm 1998-1999 căn cứ theo đơn cấp đất của ông Võ Thái H có bút phê đồng ý của ông Trường S2 – Nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện ký ngày 29/7/1998 và đơn xin cấp đất của bà Trần Thị Y có bút phê đồng ý của ông Huỳnh Thiện H6 – Nguyên Chủ tịch UBND huyện ký ngày 05/8/1999; Danh sách công khai số 153/DSTB-VPĐKQSDĐ của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và Báo cáo của Khu dân cư số 05 ngày 12/12/2016" (BLĐT 1447).

Sau đó, danh sách công khai trên bị khiếu nại, tố cáo. Ủy ban kiểm tra Huyện ủy C1 đã thụ lý giải quyết, báo cáo Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy B2 kiến nghị khởi tố với Cơ quan CSĐT Công an tỉnh về các hành vi sai phạm của Võ Thái H nêu trên.

Tại Cơ quan điều tra, bà Y xác định trong quá trình sử dụng diện tích đất 989,5m2 (thực tế đo vẽ là 1.142,6m) gia đình Võ Thái H, bà Y có xây 14 phỏng trọ rồi hợp đồng cho Công ty TNHH C2 thuê ở (khoảng 02 năm) và thu được số tiền: 2.851.992.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, Võ Thái H kêu oan cho rằng H không có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết các hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích đất 1.982m2 và không trực tiếp tác nghiệp, lợi dụng chức vụ đối với các diện tích 735,8m2 + 572,2m2 và diện tích 989,5m2 nêu trên; việc H thực hiện nhiệm vụ hoàn toàn khách quan nên không phạm tội.

Căn cứ vào kết quả điều tra và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định Võ Thái H có hành vi lợi dụng quyền hạn nhiệm vụ được giao làm trái công vụ về pháp luật đất đai theo hướng có lợi cho gia đình trong quá trình giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Trần Thị Y đối với diện tích 1.982m2 tại đường H, đã phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điểm c khoản 2 Điều 356 Bộ luật hình sự.

Đối với sai phạm của Võ Thái H trong quá trình giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 735,8m2 + 572,2m2 tại đường H, kết quả điều tra chưa có cơ sở chứng minh việc H trực tiếp tác nghiệp vào hồ sơ hay tác động đến các cá nhân thụ lý giải quyết trong việc tham mưu đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình H nên không đủ căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đổi với H. Tuy nhiên, tại thời điểm giải quyết hồ sơ (năm 2013 – 2015), H giữ chức vụ Giám đốc Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện trực tiếp lãnh đạo phụ trách đối với Nguyễn Thị S, Trần Như D, đã thiếu trách nhiệm trong quản lý, kiểm tra dẫn đến việc S, D có hành vi sai phạm gây thiệt hại như trên. Do đó, việc Cơ quan CSĐT xác định H phải có trách nhiệm liên đới đối với sai phạm của S và D là có cơ sở.

Đối với hành vi sai phạm của Võ Thái H trong quá trình giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 989,5m tại đường N, mặc dù kết quả lấy ý kiển tổ dân cư không xác định được cụ thể thời gian sử dụng đất nhưng H (đang giữ chức vụ Trưởng phòng TNMT huyện) vẫn ký danh sách công khai số 1462/DS-TNMT ngày 23/12/2016 xác định diện tích đất gia đình kê khai đề nghị đủ điều kiện được cấp giấy, nhằm mục đích để được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Tuy nhiên, H chưa thực hiện các thủ tục đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích trên; gia đình H đã tự giác tháo dỡ các công trình xây dựng trên diện tích đất lấn chiếm, trả lại đất nhà nước. Do hậu quả thiệt hại chưa xảy ra, hành vi lấn chiếm đất của gia đình H, Y chưa bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với H và các cá nhân liên quan. - Việc giao quản lý các diện tích đất:

Ngày 05/10/2017, bà Trần Thị Y đã nộp cho Văn phòng HĐND và UBND huyện C 04 giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho bà Y đối với các diện tích 735,8m2; 572,2m2; 1.260,3m2; 1.057m2 tại đường H, khu dân cư S, huyện C. Sau đó, UBND huyện C đã giao các diện tích đất (cấp không đúng quy định) cho Trung tâm phát triển quỹ đất quản lý.

Đối với một phần diện tích trong diện tích 500m2 bà Trần Thị Y chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn X1, đã được ông X1 chuyển nhượng lại cho người Đối với trách nhiệm của các cá nhân liên quan:

1. Đối với Nguyễn Văn V, trong thời gian tháng 4/2005 đến năm 2007 là Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện đã thiếu kiểm tra, không xem xét toàn diện, đối chiếu hồ sơ địa chính để xác định nguồn gốc diện tích đất 1.982m2 gia đình Võ Thái H, bà Trần Thị Y sử dụng sau thời điểm nhận chuyển nhượng QSDĐ của gia đình ông Võ Hùng B1 (tức sau ngày 26/9/2001), sau Quy hoạch chi tiết 1/2000 Trung tâm Côn Đảo được UBND tỉnh phê duyệt ngày 02/5/1998 và đã được thể hiện tại Danh sách 244a/DS.TNMT, 2445/DS.TNMT ngày 21/9/2006 của Phòng Tài nguyên – Môi trường huyện do chính Nguyễn Văn V trực tiếp ký. Mặc dù biên bản cuộc họp khu dân cư trong hồ sơ không thể hiện kết quả xác minh về thời điểm sử dụng đất của gia đình bà Y nhưng V không kiểm tra, xác minh lại, chỉ căn cứ vào Bản cam kết, Bản tưởng trinh về nguồn gốc đất của bà Y kê khai thời điểm sử dụng đất năm 1998 để xác nhận vào các tài liệu liên quan trọng hồ sơ. Sau đó, Nguyễn Văn V ký ban hành Danh sách công khai số 54/DSTB.TNMT ngày 28/02/2007 thể hiện thời điểm gia đình bà Y sử dụng diện tích 1.982m2 là năm 1998; ký Tờ trình số 56/TTr-TNMT xác định hồ sơ của bà Y đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo điểm a, b khoản 2 Điều 48 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ và đề nghị UBND huyện cấp giấy. Ngày 02/5/2007, UBND huyện đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 1982m cho gia đình bà Y, gây thiệt hại 800.643.200 đồng. Hành vi của Nguyễn Văn V đã phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 360 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do thời điểm Nguyễn Văn V thực hiện hành vi sai phạm gây ra hậu quả xảy ra từ tháng 2/2007, tính đến thời điểm có kiến nghị khởi tổ (thẳng 9/2017) đã quá 10 năm. Đến nay, Cơ quan điều tra chưa phát hiện Nguyễn Văn V thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù. Căn cứ Điều 27, 28 Bộ luật hình sự đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn V.

2. Đối với Võ Thị Xuân D1, trong thời gian từ tháng 4/2005 đến năm 2007, là Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C, được phân công nhiệm vụ tham gia nhóm 1 Tổ cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo Chương trình 07/CT.TNMT ngày 09/01/2007 đã thực hiện việc: lập sẵn nội dung biến bản đo đạc ranh giới thửa đất ngày 11/01/2007 nhưng không ký tên, vì D1 cho rằng hiện trạng đất thực tế không đúng như hồ sơ thể hiện; ghi biên bản họp khu dân cư số 3 ngày 17/01/2007 với vai trò thư ký cuộc họp. Kết quả điều tra không thể hiện việc D1 trực tiếp tham mưu, đề xuất không đúng quy định trong qua trình giải quyết hồ sơ cấp giấy, không có vụ lợi. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với Võ Thị Xuân D1.

3. Đối với ông Nguyễn Kỳ S1, trong thời gian năm 2007 là T5 Khu dân cư số 3, huyện C, đã ký xác nhận vào biên bản tưởng trình nguồn gốc đất, biên bản họp tổ dân cư, biển bản xác định ranh giới thửa đất đối với hồ sơ của gia đình bà Trần Thị Y đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 1.982m2 tại đường H. Quá trình điều tra, ông S1 cho rằng việc ký vào các tài liệu trên theo yêu cầu của Phòng TNMT huyện và không được hưởng lợi từ việc gia đình bà Y được cấp giấy. Do đó, chưa có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Kỳ S1.

4. Đối với hành vi của Trần Văn T1 khi đại diện Phòng T (làm thay cán bộ địa chính cấp xã) ký xác nhận ngày 19/4/2007 với nội dung “đất sử dụng từ năm 1998, không tranh chấp; trước quy hoạch" vào Mục II. Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ diện tích 1.982m2 của bà Trần Thị Y (ghi ngày 21/6/2006). T1 cho rằng bản thân không tham gia giải quyết hồ sơ này, việc kỷ xác nhận thực hiện sau khi hồ sơ này đã được lập danh sách công khai đủ điều kiện cấp giấy và không có khiếu nại; T1 không được hưởng lợi từ việc gia đình bà Y được cấp giấy. Do đó, chưa đủ cơ sở xử lý trách nhiệm hình sự đối với T1 về sai phạm trên.

5. Đối với sai phạm của Trần Văn T1, Hoàng Thị H1, Nguyễn Thị S và Trần Như D, với nhiệm vụ được phân công đã tham gia tác nghiệp vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình Võ Thái H và bà Trần Thị Y đều thống nhất xác định các diện tích 735,8m2+ 572,2m đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo điểm a, Khoản 5, Điều 20 Nghị định số 43 của Chính phủ và đã tham mưu đề xuất cho UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình Võ Thái H, bà Y đối với các diện tích đất trên. Trong khi trước đó vào năm 2009, tại vị trí đất trên, Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện xác định không đủ điều kiện cấp giấy do không phù hợp với quy hoạch đã bác đơn không cấp giấy cho gia đình bà Y. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 101 Luật đất đai năm 2013 thì các diện tích đất trên không đủ điều kiện để được cấp giấy CNQSDĐ do vi phạm pháp luật về đất đai, không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất.

Hành vi của các cá nhân trên thể hiện sự thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách được giao dẫn đến tham mưu UBND huyện C cấp giấy CNQSDĐ cho gia đình Võ Thái H, bà Y không đúng quy định nên đủ cơ sở xác định hành vi của các cá nhân trên có dấu hiệu của tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hiện gia đình bà Y, Võ Thái H đã giao nộp lại giấy CNQSDĐ đối với các diện tích trên (hậu quả đã được khắc phục), các cá nhân không có động cơ vụ lợi trong quá trình giải quyết cấp giấy CNQSDĐ cho gia đình bà Y; việc giải quyết, tham mưu đề nghị cấp giấy do nhận thức pháp luật còn hạn chế khi thực hiện Luật Đất đai 2013, văn bản hướng dẫn của C tỉnh dẫn đến việc áp dụng quy định pháp luật không chính xác. Xét chưa đến mức cần thiết phải xử lý hình sự về hành vi sai phạm của các cá nhân trên nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh không khởi tố điều tra xử lý. Tuy nhiên, cần kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với Trần Văn T1, Nguyễn Thị S, Hoàng Thị H1 và Trần Như D về Đảng và chính quyền.

6. Đối với bà Trần Thị Y có hành vi tự ý lấn, chiếm đất Nhà nước trái quy định, kê khai thời điểm sử dụng đất không đúng thực tế để làm đơn đề nghị và đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với các diện tích đất 1.982m; 735,8m2+572,2m2 không đúng quy định. Tuy nhiên, khi Trần Thị Y thực hiện các hành vi vi phạm trên chưa bị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.

7. Đối với các cá nhân lãnh đạo UBND huyện C trực tiếp ký các giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình Võ Thái H, bà Trần Thị Y không đúng quy định nêu trên, hiện các cá nhân này đã chết nên không xem xét xử lý trách nhiệm liên quan.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2022/HS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, quyết định:

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Thái H phạm tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 356; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Võ Thái H 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 19-08-2019 đến ngày 24-8-2020.

2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự;

Buộc Võ Thái H bồi thường thiệt hại cho Ủy ban nhân dân huyện C số tiền 127.529.292 đồng (một trăm hai bảy triệu năm trăm hai chín ngàn hai trăm chín hai đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về việc thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 21/12/2022, bị cáo Võ Thái H có đơn kháng cáo kêu oan, cho rằng không phạm tội. Ngày 02/8/2023, bị cáo có đơn xin sửa đổi bổ sung đơn kháng cáo, bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm pháp luật như án sơ thẩm nhận định, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07/12/2022, bà Trần Thị Y có đơn kháng cáo toàn bộ phần dân sự của vụ án. Ngày 18/10/2023, bà Y có đơn rút lại toàn bộ nội dung kháng cáo và Toà án có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 57/2023/QĐ-PT ngày 23/11/2023 đối với yêu cầu kháng cáo của bà Y.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Bị cáo Võ Thái H, yêu cầu Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo vì bị cáo thấy được hành vi vi phạm pháp luật, án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng nên đã khắc phục toàn bộ thiệt hại theo bản án sơ thẩm quyết định, bị cáo nhất thời có hành vi vi phạm pháp luật để cho gia đình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định. Hiện tại, diện tích đất gia đình bị cáo vẫn đang sử dụng và theo quy hoạch mới sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bị cáo đang bị nhiều bệnh nên phải uống thuốc và điều trị dài ngày, bản thân có nhiều thành tích trong công tác.

- Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cháp nhận kháng cáo yêu cầu giảm ăn của bị cáo vì bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục toàn bộ thiệt hại, bản thân bị cáo có nhiều thành tích trong công tác cũng như đóng góp tại C, theo kết quả định giá thì giá trị bị cáo gây thiệt hại vào thời điểm năm 2007 có giá cao nhất là 74.000.000đ, thấp nhất là 17.000.000₫ nên thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trong, bị cáo đang bị bệnh phải điều trị nhiều ngày.

19 - Người đại diện theo uỷ quyền của huyện C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo có nhiều đóng góp cho huyện C, bị cáo là thanh niên xung phong tự nguyện ở lại C, trong thời gian công tác có nhiều thành tích tốt được tặng nhiều bằng khen, giấy khen, bị cáo có nhân nhân tốt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, bị cáo rút lại nội dung kháng cáo kêu oan, chỉ yêu cầu giảm hình phạt nên án sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ là có căn cứ. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục toàn bộ thiệt hại nên cần căn nhắc khi quyết định hình phạt cho bị cáo. Đề nghị: Giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Thái H thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xét xử, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có lưu trong hồ sơ thể hiện việc bị cáo H lợi dụng quyền hạn nhiệm vụ được giao khi thực hiện chương trình triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007 làm trái công vụ về pháp luật đất đai theo hướng có lợi cho gia đình mình để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.982m nên Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo Điều 356 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2]. Xét kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt đối của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1]. Quá trình điều tra bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm như nêu trên và gia đình tự nguyện nộp lại 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp không đúng pháp luật nhưng bị cáo cho rằng hành vi sai phạm của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành phạm tội phạm, việc khai nhận của bị cáo đã giúp cơ quan tiến hành sớm đưa vụ án ra xét xử, việc đánh giá chứng cử và nhận định bị cáo phạm tội gì là thẩm quyền của cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là chưa xem xét và đánh giá toàn diện vụ án.

[2.2]. Đại diện UBND huyện C đề nghị xem xét chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là thanh niên xung phong đã tự nguyện ở lại C và đã cống hiến cho Côn Đảo thời gian dài, quá trình công tác có nhiều thành tích đóng góp nên được tặng nhiều giấy khen, bằng khen.

[2.3]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải và đã nộp toàn bộ số tiền 127.529.292 đồng khắc phục hậu quả như bản án đã quyết định (Theo Biên lai thu tiền số 0001181 ngày 12/10/2023 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt quan trọng để Hội đồng xét xử xem xét đánh giá về hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm d khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng xét xử cũng xem xét khi bị cáo thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thì giá trị thiệt hại tại thời điểm năm 2007 có giá trị dưới 100.000.000đ.

[2.4]. Diện tích đất gia đình bị cáo kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định năm 2007 thì hiện nay gia đình bị cáo vẫn sử dụng ổn định, quá trình sử dụng đất có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay bị thu hồi thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý đất đai tại địa phương, trường hợp đất bị quy hoạch thu hồi thì thu hồi theo quy định của pháp luật.

[3]. Từ những phân tích nêu trên, hiện bị cáo đã lớn tuổi bị bệnh lý đãi tháo đường, tăng huyết áp vô căn, rối loạn tích lũy lipit, rối lọan chức năng gan cần điều trị và bị cáo có đủ điều kiện áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của của bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo là xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và khắc phục toàn bộ thiệt hại.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không chịu án phí.

[5]. Như đã phân tích, lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về cân nhắc khi quyết định hình phạt là phù hợp với nhận định của toà án nên được chấp nhận, riêng việc đề nghị giữ y án sơ thẩm là không phù hợp nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thái H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 85/2022/HS-ST ngày 21/12/2022của Tòa án nhân dân tỉnh tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phần hình phạt.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Thái H phạm tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 356; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

3. Xử phạt Võ Thái H, 01 (một) năm 06 (sáu) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/08/2019 đến ngày 24/8/2020. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

4. Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ số 815/2023/HS-PT

Số hiệu:815/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về