Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 40/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2022/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 37/2022/ QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN MINH T, sinh năm: 1993 tại tỉnh Quảng Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H và bà Huỳnh Thị D; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại. (Có mặt)

2. NGUYỄN NGỌC NH (Mỹ), sinh năm: 1973 tại tỉnh Khánh Hòa. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố L, phường C, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim T và bà Nguyễn Thị B; có vợ và 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại. (Có mặt)

- Bị hại: Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành; địa chỉ trụ sở chính: Số 57/1 Đường C, Phường 2, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Sỹ D; Chức vụ: Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trịnh Thị Y; Chức vụ: Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành. (Xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Thị Ph, sinh năm: 1963;

nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt) - Người làm chứng:

1. Ông Châu Văn T, sinh năm: 1986; nơi cư trú: Thôn V 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

2. Ông Trần Xuân V, sinh năm: 1984; nơi cư trú: Thôn Tệp, xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành, địa chỉ số 57/1 C, phường 2, quận T, thành phố Hồ Chí Minh và Công ty trách nhiệm hữu hạn điện mặt trời Trung Nam T, địa chỉ tại thôn Q 1, xã M, huyện T, tỉnh Ninh Thuận có ký kết hợp đồng mua bán xi măng (Hợp đồng số 33/2020/HĐMBXM, ngày 23/10/2020). Theo đó, Công ty Đức Thành (bên bán) có trách nhiệm vận chuyển xi măng đến nhà máy điện mặt trời Trung Nam T tại xã M, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, mọi thiệt hại, mất mát trong quá trình vận chuyển, giao hàng thì công ty Đức Thành phải chịu trách nhiệm.

Để thực hiện hợp đồng số Hợp đồng số 33/2020/HĐMBXM, ngày 23/10/2020, Công ty Đức Thành mua xi măng từ nhà máy nghiền xi măng Hà Tiên ở thành phố R, tỉnh Khánh Hòa và thuê Nguyễn Ngọc Nh vận chuyển xi măng từ nhà máy xi măng đến dự án điện mặt trời Trung Nam T, tỉnh Ninh Thuận. Khoảng 21 giờ ngày 22/5/2021, Công ty Đức Thành nhắn tin cho Nguyễn Ngọc Nh biết mã số nhận xi măng, số lượng ximăng và số điện thoại của người đại diện nhận xi măng tại dự án điện mặt trời Trung Nam T. Khoảng 02 giờ ngày 23/5/2021, Nh điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 79C-065.48 đến nhà máy xi măng Hà Tiên ở thành phố R, tỉnh Khánh Hòa nhận 40 tấn xi măng Hà Tiên đa dụng, lấy phiếu xuất kho rồi điều khiển xe theo Quốc lộ 1A vào dự án điện mặt trời Trung Nam T, tỉnh Ninh Thuận. Trên đường đi, Nhân gọi điện thoại cho đại diện các nhà thầu để nhận xi măng, trong đó có Nguyễn Minh T là người nhận hàng của công ty BK Đại Hưng, báo sẽ chuyển cho công ty BK Đại Hưng 10 tấn xi măng. Sau khi nghe điện thoại của Nhân, T biết ximăng của công ty đang dư nên nảy sinh ý định chiếm đoạt xi măng sắp nhận để lấy tiền tiêu xài, T gọi điện cho Nh nói bán 10 tấn xi măng, T lấy 8.000.000 đồng, số còn lại chia cho Nh, khi vào đến công trình T sẽ hợp thức hóa thủ tục nhận ximăng, Nh đồng ý. Khoảng 07 giờ ngày 23/5/2021, Nh điều khiển xe đến thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận bán 10 tấn xi măng cho bà Huỳnh Thị Ph (chủ cửa hàng vật liệu xây dựng Ph) với giá 12.000.000 đồng, Nh lấy 4.000.000 đồng, đưa cho T 8.000.000 đồng. Khoảng 09 giờ cùng ngày, Nh chở xi măng còn lại đến cổng dự án điện mặt trời Trung Nam bị bảo vệ chặn xe, kiểm tra, phát hiện thiếu xi măng nên lập biên bản và báo cho Công an xã M, huyện T.

Ngày 23/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra yêu cầu định giá tài sản. Bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐG, ngày 24/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận giá trị của 10.000 kg (200 bao) xi măng Hà Tiên đa dụng là 15.200.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 35/CT-VKSTN ngày 11 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng tù đến 30 tháng.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng tù đến 24 tháng.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 23/5/2021, bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) nhận vận chuyển thuê cho Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành 40 tấn xi măng chở đến nhà máy điện mặt trời Trung Nam T thuộc xã M, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Trên đường vận chuyển, bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) cùng với bị cáo Nguyễn Minh T đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 10 tấn xi măng bán cho bà Huỳnh Thị Ph là chủ cửa hàng vật liệu xây dựng Ph thuộc thôn N, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt có trị giá 15.200.000đ (Mười lăm triệu hai trăm nghìn đồng) (Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 16/KL-HĐĐG ngày 24 tháng 6 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T).

Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, xét vai trò của từng bị cáo được đánh giá như sau: Bị cáo Nguyễn Minh T là người khởi xướng và giúp sức cho đồng bọn; bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) là người thực hành.

Xét thấy hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt các bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trong; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người đại diện theo ủy quyền của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân tốt.

Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách để các bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện tốt bản thân mình là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của bị hại Công ty cổ phần đầu tư thương mại Đức Thành không yêu cầu các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) bồi thường tài sản bị chiếm đoạt, ngoài ra không có yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/9/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Minh T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/9/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) cho Ủy ban nhân dân phường C, thành phố R, tỉnh Khánh Hòa nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ) mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/9/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

(Đã giải thích chế định án treo cho các bị cáo Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Nh (Mỹ)) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về