TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 388/2022/HSST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 371/2022/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 401/2022/QĐXXST-HS ngày 25/8/2022, đối với bị cáo:
1. Trần Song L, sinh năm 1988 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 14, Khu phố 6, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T và bà Trần Thị H; Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con út; sống chung như vợ chông với chị Quách Ngọc H và có 01 người con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 30 tháng 9 năm 2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”, theo Bản án số 613/2011/HSST (bị cáo đã chấp hành hình phạt tù ngày 31/8/2015, đã chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 13/6/2012).
Bị cáo bị bắt truy nã và bị giam giữ từ ngày 26/4/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hoà (có mặt).
2. Tạ Minh T, sinh năm 1998 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Tổ 13, khu phố 6, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Hữu T và bà Sơn Thị S (đã chết); Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con út, bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo đang tại ngoại (có mặt).
Bị hại: Anh Tống Ngọc Gia H, sinh năm 2003;
Nơi đăng ký thường trú: Khu phố 2, phường BT, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ tạm trú: Khu phố 6, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Song L, Tạ Minh T và Nguyễn Tuấn A (sinh năm 1989, ngụ tại tổ 11, khu phố 3, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai) là bạn bè với nhau. Vào khoảng 02 giờ 40 phút ngày 09 tháng 9 năm 2021, L, T và Tuấn A đi bộ lang thang tại khu vực nghĩa địa Đa Minh thuộc khu phố 6, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tìm địa điểm để L xăm hình lên người cho Tuấn A. Khi đi đến khu nhà trọ tại địa chỉ số 38/28, khu phố 6, phường Tam Hiệp thì gặp anh Tống Ngọc Gia H đang cầm điện thoại ngồi chơi game trước cửa phòng trọ nên L, T cùng với Tuấn A đi vào gặp anh H để xin thuốc hút và mượn phòng trọ để L xăm hình cho Tuấn A thì được H đồng ý. Trong lúc đang xăm hình cho Tuấn A thì L hỏi anh H có muốn xăm hình không thì anh H đồng ý xăm hình. Tuy nhiên, do hết mực xăm nên L hỏi mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X của anh H để gọi điện thoại cho bạn lấy thêm mực xăm, anh H đồng ý và lấy điện thoại bấm gọi theo số do L đọc rồi đưa điện thoại cho L cầm để nghe. Lúc này, L nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên của anh H nên L đưa điện thoại của anh H cho T nói T ra ngoài nghe máy. Khi T vừa cầm điện thoại của H đi ra ngoài thì L liền đi ra theo sau và nói T mang chiếc điện thoại đi trước, hiểu ý L muốn chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh H nên T đã đồng ý và mang chiếc điện thoại của anh H trốn về nhà tại phường Tam Hiệp cất giấu. Còn L quay lại phòng trọ của anh H, sau đó giả vờ lấy lý do đi tìm T và bỏ trốn. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, L và T hẹn và gặp nhau tại nghĩa địa Đa Minh bàn nhau đi tiêu thụ chiếc điện thoại trên và giao cho T mang đi bán. Sau đó, T đã mang chiếc điện thoại chiếm đoạt được của anh H bán cho anh Nguyễn Văn Út L (sinh năm 1987, ngụ tại xã VPD, HP, tỉnh Bạc Liêu) là chủ cửa hàng điện thoại “N” tại địa chỉ khu phố 7, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa được số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) rồi mang về nhà của Đồng Văn P (sinh năm 1967) tại số khu phố 8, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai chia cho L số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), còn lại số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) T đi mua mua túy, nước ngọt và card nạp tiền điện thoại mang về nhà P sử dụng chung. Sau khi bị chiếm đoạt điện thoại, anh H đã trình báo với Công an phường Tam Hiệp lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa khởi tố, điều tra xử lý.
(Lời khai của bị can tại các bút lục số: 78-80, 83-90, 99-112);
(Lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại các bút lục số: 113-118, 120-126, 127-128, 129, 130-131) Vật chứng vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, là tài sản của anh H bị chiếm đoạt. Sau khi chiếm đoạt, bị can T đã bán cho anh Nguyễn Văn Út L, sau đó anh L đã bán lại chiếc điện thoại này cho một người khách (không rõ lai lịch) nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. (Bút lục:
127-128, 142);
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 400/KL-HĐĐGTS ngày 28 tháng 9 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X có trị giá là 6.683.600 đồng (Sáu triệu, sáu trăm tám mươi ba nghìn, sáu trăm đồng)”. (Bút lục số: 7- 10);
Về dân sự: Bị hại anh Tống Ngọc Gia H đã nhận số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) do gia đình bị can Trần Song L bồi thường và đã làm đơn bãi nại cho các bị can L và T, không có yêu cầu gì thêm. (Bút lục: 119).
Tại Cáo trạng số: 392/CT-VKS-BH ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà đã truy tố các bị can Trần Song L và Tạ Minh T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trần Song L và Tạ Minh T; về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo L đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại; Bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51 (đối với bị cáo L); điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo T); xử phạt bị cáo Trần Song L từ 10 tháng tù đến 12 tháng tù và xử phạt bị cáo Tạ Minh T từ 06 tháng tù đến 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Đối với anh Nguyễn Văn Út L là người mua chiếc điện thoại do các bị can L và T chiếm đoạt được của anh H nhưng khi mua anh L không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ;
Đối với Đồng Văn P: Tại nhà của P, P có nhìn thấy bị can T đưa tiền cho bị can L và sau đó P có sử dụng chung ma túy, nước ngọt với các bị can L và T. Tuy nhiên, P không biết là tiền gì và không biết gì về hành vi phạm tội nêu trên của các bị can L và T nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ;
Đối với hành vi của các bị cáo L và T cùng thống nhất dùng tiền do phạm tội mà có mua ma túy đá về nhà của Đồng Văn P sử dụng chung, chưa đủ căn cứ để kết luận, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo L đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
Về vật chứng: Không thu hồi được nên không xem xét.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Vì vậy, hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.
[2] Lời khai tại phiên tòa của các bị cáo Trần Song L và Tạ Minh T phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bắt người đang bị truy nã, biên bản tiếp nhận người bị bắt theo quyết định truy nã, lời khai của bị hại, của người làm chứng, kết luật định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 02 giờ 40 phút ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại nhà trọ địa chỉ số 38/28, khu phố 6, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Trần Song L và Tạ Minh T đã có hành vi mượn điện thoại của anh Tống Ngọc Gia H để sử dụng, sau đó đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X trị giá 6.683.600 đồng (Sáu triệu, sáu trăm tám mươi ba nghìn, sáu trăm đồng) của anh Tống Ngọc Gia H thì bị phát hiện, khởi tố điều tra xử lý. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, các bị cáo Trần Song L và Tạ Minh T đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Riêng Nguyễn Tuấn A không biết việc chiếm đoạt tài sản của Trần Song L và Tạ Minh T nên không xử lý đối với Tuấn A.
[3] Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy: Về tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo L đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại đã làm đơn xin bãi nại cho bị cáo đây là tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Trong vụ án này, bị cáo L là người nảy sinh ý định chiếm đoạt trước và xúi giục bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo L là đồng phạm giữ vai trò chính trong vụ án. Hơn nữa, bị cáo L đã từng bị xử phạt tù về tội “Cướp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo L đã trốn truy nã và bị bắt nên cần xử phạt bị cáo L mức án cao hơn so với bị cáo T. Hội đồng xét xử thấy cần cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội để răn đe, giáo dục đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Tuyên bố bị cáo Trần Song L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Trần Song L 10 (mười) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 4 năm 2022.
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Tuyên bố bị cáo Tạ Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Tạ Minh T 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị bắt đi thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo Trần Song L, Tạ Minh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 388/2022/HSST
Số hiệu: | 388/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về