Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 143/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 143/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 127/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2023/HSST-QĐ ngày 28 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Hoàng Văn H, sinh năm 1994 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Vũ Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/9/2023, Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, phạt 2.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ từ ngày 15/8/2023, chuyển tạm giam từ ngày 24/8/2023 đến nay; có mặt.

Bị hại: Anh Phạm Anh T, sinh năm 1991; trú tại: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Văn Tuấn A, sinh năm 1989; trú tại: Tổ 10, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Anh Đỗ Bá V, sinh năm 1992; trú tại: Tổ 1, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Ông Trần Đăng K, sinh năm 1975; trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Anh Phạm Văn D, sinh năm 1987; trú tại: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quen biết từ trước nên tối ngày 10/7/2023, anh Phạm Anh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đen Biển kiểm soát (viết tắt là BKS):

90H4-A9 đến thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam để đón Hoàng Văn H, sau đó cả hai đi về phòng trọ của H tại phường Lê H, thành phố P, tỉnh Hà Nam để hôm sau H dẫn đi xin việc. Khoảng 07 giờ ngày 11/7/2023, H điều khiển xe mô tô BKS 90H4-A9 chở anh T đi đến Công ty B ở phường C, thành phố P để làm bốc vác thuê, H để xe mô tô ở phía sau kho của công ty và đưa chìa khóa xe cho anh T. Trong lúc bốc xếp hàng anh T đã nhờ H cầm hộ chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, H hỏi anh T mượn xe để H đi về phòng trọ, anh T đồng ý rồi đưa chìa khóa xe mô tô cho H. Trên đường đi H nảy sinh ý định bán chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng mà anh T nhờ H cầm hộ để lấy tiền tiêu sài, H điều khiển xe mô tô đến cửa hàng mua bán điện thoại Khang Mobile ở tổ dân phố L, phường C, thành phố P bán chiếc điện thoại Iphone 6s cho anh Văn Tuấn A với giá 800.000 đồng. Sau khi bán được điện thoại, H không về phòng trọ mà điều khiển xe mô tô đi về nhà tại thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam; tại đây, H mở cốp xe thì thấy bên trong cốp xe có giấy đăng ký xe mô tô BKS 90H4-A9 và Căn cước công dân của anh T nên H nảy sinh ý định bán chiếc xe mô tô của anh T để lấy tiền tiêu sài. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô BKS 90H4-A9 từ nhà đến cửa hàng mua bán xe máy T ở địa chỉ số 51 đường L, tổ 1, phường L, thành phố P bán xe mô tô trên cho anh Đỗ Bá V với giá 5.000.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, H bắt xe khách lên Lạng Sơn và tiêu sài hết số tiền trên.

Ngày 15/8/2023, Hoàng Văn H đến Cơ quan điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đầu thú.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- Thu giữ của anh Văn Tuấn A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng.

- Thu giữ của anh Đỗ Bá V 01 giấy bán (cho tặng) xe đề ngày 11/7/2023, ký tên người bán là Phạm Anh T.

- Thu giữ của ông Trần Đăng K 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu sơn đen BKS 90H4 - A9; 01 đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Phạm Văn D.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 85/KL-HĐĐGTS ngày 21/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận:

“1. 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha, biển số 90H4-A9, màu sơn đen, số khung 12158Y045020, số máy 1045104, xe đã qua sử dụng (tại thời điểm tháng 7/2023) giá là 6.000.000đ;

2. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, số IMEI:358568076802879, đã qua sử dụng (tại thời điểm tháng 7/2023) giá là 750.000đ”.

Tại bản cáo trạng số 137/CT-VKS-PL ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Hoàng Văn H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Hoàng Văn H như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX):

+ Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 12 đến 18 tháng tù, thời gian được tính từ ngày bị tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Văn Tuấn A số tiền 800.000đ, bồi thường cho anh Đỗ Bá V số tiền 5.000.000đ; Yêu cầu anh Đỗ Bá V phải hoàn trả lại cho ông Trần Đăng K số tiền 6.500.000đ.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại anh Phạm Anh T có quan điểm: Ngày 11/7/2023 bị cáo Hoàng Văn H lợi dụng sự tin tưởng của anh, đã mượn và chiếm đoạt của anh chiếc xe mô tô BKS 90H4-A9 và 01 điện thoại Iphone 6S mang bán lấy tiền tiêu sài. Nay anh xác định chiếc điện thoại là của anh còn chiếc xe mô tô là của anh Phạm Văn D (là anh trai anh), anh và anh D đã nhận lại các tài sản trên và không có yêu cầu đề nghị gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Phạm Văn D vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra có quan điểm: Chiếc xe mô tô BKS 90H4-A9 là tài sản của anh cho Phạm Anh T (em trai anh) mượn để đi lại. Ngày 11/7/2023 bị cáo Hoàng Văn H đã mượn xe của T và mang bán lấy tiền tiêu sài. Nay anh đã nhận lại chiếc xe, không có yêu cầu đề nghị gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Văn Tuấn A vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra có quan điểm: Ngày 11/7/2023 anh có mua của bị cáo H 01 điện thoại Iphone 6S với giá 800.000đ, anh không biết chiếc điện thoại này do phạm tội mà có, anh đã giao nộp cho cơ quan điều tra công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền. Nay anh yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền 800.000đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đỗ Bá V vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra có quan điểm: Ngày 11/7/2023 anh có mua của một nam thanh niên 01 chiếc xe mô tô Wave anpha màu đen BKS 90H4- A9 với giá 5.000.000đ, anh không biết nguồn gốc của chiếc xe. Khoảng một tuần sau thì anh bán lại chiếc xe trên cho ông K ở tổ dân phố B, phường T, thành phố P với giá 6.500.000đ. Nay anh yêu cầu người thanh niên đã bán xe mô tô biển số 90H4-A9 bồi thường cho anh số tiền 5.000.000đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Đăng K vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra có quan điểm: Khoảng ngày 20/7/2023, ông có mua của anh Đỗ Bá V chiếc xe mô tô Wave anpha màu đen BKS 90H4-A9 với giá 6.500.000đ, ông không biết chiếc xe trên liên quan đến hành vi phạm tội, ông đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Công an chiếc xe trên.

Nay ông yêu cầu anh Đỗ Bá V phải bồi thường cho ông số tiền 6.500.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai và quan điểm của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Bị cáo Hoàng Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/7/2023, bị cáo Hoàng Văn H lợi dụng sự tin tưởng của anh Phạm Anh T, đã mượn và chiếm đoạt của anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S trị giá 750.000 đồng và 01 xe mô tô BKS 90H4-A9 trị giá 6.000.000 đồng đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân; tổng giá trị tài sản mà bị cáo Hoàng Văn H chiếm đoạt của anh Phạm Anh Tuấn là 6.750.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 12/9/2023, Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền là 2.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú, tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn H là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có khả năng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng hiện nay. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với anh Phạm Anh T và anh Phạm Văn D không có yêu cầu đề nghị gì về phần bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét.

- Đối với anh Văn Tuấn A yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 800.000đ là tiền anh đã bỏ ra để mua chiếc điện thoại Iphone 6s của bị cáo. Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo xác định đã trực tiếp bán chiếc điện thoại trên cho anh Tuấn A với giá 800.000đ, bị cáo nhất trí bồi thường số tiền trên nên HĐXX chấp nhận.

- Đối với anh Đỗ Bá V yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền 5.000.000đ là tiền anh đã bỏ ra để mua chiếc xe mô tô BKS 90H4-A9. Tại phiên tòa bị cáo xác định đã bán chiếc xe mô tô BKS 90H4-A9 cho anh V và đã nhận của anh V số tiền 5.000.000đ, bị cáo nhất trí bồi thường cho anh V số tiền trên nên HĐXX chấp nhận.

- Đối với ông Trần Đăng K yêu cầu anh Đỗ Bá V phải bồi thường số tiền 6.500.000đ là tiền ông đã bỏ ra để mua chiếc xe mô tô BKS 90H4-A9. Xét thấy, tại phiên tòa cả anh Đỗ Bá V và ông Trần Đăng K đều vắng mặt không có lý do;

bị cáo xác định đã bán chiếc xe mô tô trên cho anh V chứ bị cáo không liên quan gì đến ông K. Do đó, HĐXX tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu. [7] Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu sơn đen, BKS 90H4 - A9; 01 giấy đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Phạm Văn D và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Phạm Văn D và anh Phạm Anh T. Ngày 12/10/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại xe mô tô, giấy đăng ký xe và điện thoại cho anh Phạm Văn D và anh Phạm Anh T là phù hợp.

[8] Về vấn đề khác của vụ án:

- Đối với anh Văn Tuấn A đã mua chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s của Hoàng Văn H; anh Đỗ Bá V và ông Trần Đăng K là những người đã mua chiếc xe mô tô BKS 90H4 – A9. Quá trình điều tra xác định anh Tuấn A, anh V và ông K đều không biết những tài sản này do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, hành vi của anh Văn Tuấn A, anh Đỗ Bá V và ông Trần Đăng K không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175, các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Căn cứ các Điều 135, 136, 331, 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự; Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2/ Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 8 năm 2023.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hoàng Văn H phải bồi thường cho anh Văn Tuấn A số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) và bồi thường cho anh Đỗ Bá V số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành nếu bên phải thi hành chậm trả tiền thì còn phải chịu lãi chậm trả tương ứng với số tiền chậm trả cho đến khi thanh toán xong theo lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4/ Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là A.000đ (hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 143/2023/HS-ST

Số hiệu:143/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về