Chào chị, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật Hình sự năm 2015, như sau:
"Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Hành hung để tẩu thoát;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;
- Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại một trong các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng."
Dưới đây, là một số bản án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nổi bật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
- Trích dẫn nội dung: “Cấp sơ thẩm kết luận bị cáo Huỳnh Minh P phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là chưa có căn cứ vững chắc. Bởi lẽ: Bị cáo và bị hại là bạn bè, cùng đi chơi chung; bị cáo không thực hiện hành vi cướp giật tài sản từ tay bị hại, không có ý thức chiếm đoạt tài sản của bị hại từ trước và dùng các thủ đoạn khác để dịch chuyển tài sản của bị hại, nhanh chống tẩu thoát khỏi hiện trường. Hành vi của bị cáo P là lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản và chiếm đoạt tài sản ngay trước mặt bị hại nên đã thỏa mãn dấu hiệu để cấu thành tội: “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”.”
- Kết quả giải quyết: Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh P 01 (một) năm tù.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
- Trích dẫn nội dung: “Vào khoảng 18 giờ 05 phút ngày 28 tháng 11 năm 2018, Đặng Thái P đang đi bộ đến trước trường H thì phát hiện Phạm Hoàng Kim A điều khiển xe mô tô biển số 65GA – xx bị va chạm với xe đạp chạy cùng chiều do một người nam điều khiển, do không bị thương tích gì nên người nam bỏ đi. Lúc này, Đặng Thái P đi bộ đến và dắt xe mô tô của Kim A vào lề đường và cùng Kim A đi được hơn 50 mét tìm chỗ sửa xe nhưng chủ tiệm sửa xe báo không sửa được nên P mượn dụng cụ tự sửa xe. Sau khi P tự sửa được xe thì nảy sinh ý định chiếm đoạt xe này nên đã lên xe, khởi động máy bỏ chạy về hướng công viên L, Kim A truy hô và nắm cảng xe nhưng không được.”
- Kết quả giải quyết: Xử phạt Đặng Thái P 02 năm tù.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
- Trích dẫn nội dung: “Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, Th ngồi tại cổng nhà Th thì gặp bà Trần Thị R (sinh năm 1924) ở cùng thôn với Th đi bộ ngang qua. Do cần tiền uống rượu, Th nảy sinh ý định lấy tiền của bà R nên đứng dậy đi bộ theo sau về phía bà R. Tới nơi, Th đi áp sát bên trái người bà R, dùng hai tay ôm vòng qua trước bụng bà R, dùng tay phải sờ nhẹ nhàng tìm tiền trên người bà thì phát hiện thấy tại cạp quần bên phải của bà có 01 chiếc túi rút. Th lấy luôn ra thấy chiếc túi rút vải hoa màu nâu, kích thước khoảng (5 x 8)cm, Th mở ra, thấy bên trong túi có 600.000 đồng, gồm 6 tờ tiền loại mệnh giá 100.000 đồng. Tay phải Th cầm chiếc túi rút, tay trái rút toàn bộ tiền trong túi ra cầm ở tay trái, đồng thời tay phải nhét trả luôn chiếc túi rút vào túi áo bà R. Bà R phát hiện Th lấy chiếc túi rút từ cạp quần của bà để lấy tiền, bà nhìn rõ Th cầm tiền trên tay trái và nhét trả chiếc túi rút vào túi áo bên trái của bà. Bà R sờ nắn luôn chiếc túi rút không thấy còn tờ tiền nào, bà liền dùng tay đập vào vai Th và nói: “Th ơi, sao lấy sáu trăm nghìn đồng của tao, trả tao Th ơi”. Th không nói gì, tiếp tục đi bộ lững thững về phía nhà bà Nhâm Thị D, sinh năm 1934 ở cùng thôn là mẹ đẻ của Th.”
- Kết quả giải quyết: Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 09 (chín) tháng tù.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 20-01-2018, Lê Thanh T và Trịnh Minh Phường cùng đi trên xe ô tô tải biển số 67C-058.28. Khoảng 12 giờ 40 phút cùng ngày, xe đến trạm thu phí T2 thuộc khu vực Thới Hòa 1, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ. T không chịu mua vé, mà cự cãi với nhân viên thu phí. T nhìn thấy Hà Kim A (là nhân viên thu phí) cầm điện thoại di động Samsung A5, ghi hình sự việc cự cãi, nên đến cự cãi với A, rồi giật lấy điện thoại. Sau đó, T điều khiển xe đi về hướng thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Lực lượng cảnh sát giao thông và trật tự Công an quận N đã truy đuổi và bắt giữ T (BL. 72, 88).Theo kết quả định giá, điện thoại di động của A có giá là 4.000.000 đồng.”
- Kết quả giải quyết: Xử phạt Lê Thanh T 06 (sáu) tháng tù.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
- Trích dẫn nội dung: “Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 13/9/2020, Nguyễn Đức C đi xe đạp điện xuống nhà cụ Hoàng Thị T tại thôn K, L, Gia Lâm, thành phố Hà Nội để tìm bạn. Do bạn của C không có ở phòng trọ nên C ngồi đợi bạn. Trong lúc đợi bạn, C có cầm tờ tiền 500.000 đồng nhờ Cụ T đổi tiền, Cụ T tự lấy số tiền 2.000.000 đồng (gồm 10 tờ 200.000 đồng) đưa cho C để C tự lấy tiền đổi. Sau khi cầm tiền của Cụ T, C quan sát thấy Cụ T tuổi đã cao, không ngăn cản được nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền nói trên. C cầm tiền và điều khiển xe đạp điện ra ngoài đường. Cụ T không hô hoán hay có hành động ngăn cản C. Ngày 28/9/2020, ông Đăng Hữu Vấn là con của Cụ T làm đơn trình báo cơ quan Công an về việc nội dung sự việc nêu trên.”
- Kết quả giải quyết: Xử phạt Nguyễn Đức C 12 tháng tù.