Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 102/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 102/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự T lý số:103/2022/TLST - HS ngày 14/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2022/QĐXXST- HS ngày 16/9/2022 đối với bị cáo:

LÔ VĂN T Tên gọi khác: không. Sinh ngày 06/6/2003, tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Nơi thường trú: thôn T, xã Y, huyện H, tỉnh T. Họ và tên bố: Lô Văn H, sinh năm 1977; họ và tên mẹ: Bế Thị T, không rõ năm sinh. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày , tôn giáo: không. Trình độ văn hóa: 12/12, nghề nghiêp: không. Bị cáo là con một trong gia đình. Vợ, con: chưa. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 08/7/2022, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Q, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lô Văn T: ông Phạm Thành D, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: anh Nguyễn Văn Q, sinh ngày 14/11/2004 Anh Nguyễn Văn Q1, sinh ngày 14/11/2004.

Nơi cư trú: Khu K, phường M thị xã Q, tỉnh Q

- Đại diện hợp pháp của hai bị hại: bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Khu K, phường M thị xã Q, tỉnh Q. Hai bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: anh Hoàng L, sinh năm 1993 Nơi cư trú: khu H, phường Đ, thị xã Q, tỉnh Q, - Anh Vũ Văn D, sinh năm 1994. Nơi cư trú: khu Thuận Thành, phường Đ, thị xã Q, tỉnh Q.

- Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1992. Nơi cư trú: khu T, phường M, thị xã Q, tỉnh Q.

- Anh Lý Văn K, sinh năm 2004. Nơi cư trú: thôn C, xã Y, huyện H, tỉnh T.

- Anh Trần Đức M, sinh năm 2004. Nơi cư trú: thôn H, xã Y, huyện H, tỉnh T. Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: trong thời gian Lô Văn T học tại Trường Cao đẳng nông lâm Đông Bắc thuộc khu T, phường M, thị xã Q, tỉnh Q có quen với hai anh em sinh đôi học cùng trường là anh Nguyễn Văn Q và Nguyễn Văn Q1. Buổi trưa ngày 28/5/2022, T gọi điện qua Facebook hỏi mượn anh Nguyễn Văn Q chiếc điện thoại di động Iphone XS Max 64GB, màu đen để làm phương tiện liên lạc khi về quê ở tỉnh Tuyên Quang, hẹn ngày 09/6/2022 sẽ trả, anh Q đồng ý. Ngày 29/5/2022, T về quê, đến ngày 30/5/2022, quay lại trường học. Ngày 01/6/2022, T mua thẻ điện thoại nạp vào tài khoản trong game “Go88” để chơi đánh bạc qua mạng dưới hình thức “tài – xỉu” và thắng 15.000.000 đồng. Sau đó T mua 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11, màu tím với giá 9.000.000 đồng. Ngày 02/6/2022, T đánh bạc qua mạng thua hết tiền nên cầm chiếc điện thoại Iphone 11 đến cửa hàng điện thoại của anh Hoàng L thuộc khu Km11, phường M, thị xã Q đặt làm tin để vay số tiền 4.000.000 đồng.

Ngày 04/6/2022, T tiếp tục đánh bạc qua mạng thua hết tiền. T mang chiếc điện thoại Iphone XS Max của anh Q đến cửa hàng anh L để thay thế và lấy chiếc điện thoại Iphone 11 về bán ở cửa hàng điện thoại “Duy Thắm” thuộc khu Km11, phường M với giá 8.600.000 đồng. Số tiền này T cũng sử dụng hết vào việc đánh bạc qua mạng.

Tối ngày 07/6/2022, T mượn anh Nguyễn Văn Q1 chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus 64GB, màu hồng để gọi về cho gia đình, hẹn sáng ngày 08/6/2022 trả, anh Q1 đồng ý. Sáng ngày 08/6/2022, do không có tiền đánh bạc qua mạng nên T mang điện thoại của anh Q1 đến cửa hàng của anh L đặt làm tin để vay số tiền 3.000.000 đồng. Sau đó, T đánh bạc qua mạng thua hết tiền.

Đến trưa ngày 10/6/2022, T tự ý thỏa thuận bán điện thoại Iphone XS Max cho anh L với giá 5.000.000 đồng; tối cùng ngày, T tiếp tục thỏa thuận bán chiếc điện thoại Iphone 8 Plus cho anh L với giá 3.500.000 đồng và lấy nốt số tiền còn lại sau khi đã trừ đi số tiền vay trước đó để đánh bạc qua mạng.

Ngày 08/7/2022, sau nhiều lần đòi điện thoại, T hứa hẹn nhưng không trả, anh Q và anh Q1 đến Công an phường M, thị xã Q trình báo sự việc .

Kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐĐG ngày 15/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Q, kết luận: 01 chiếc điên thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max 64GB, màu đen, đã qua sử dụng, trị giá 9.000.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus 64GB, màu hồng, đã qua sử dụng, trị giá 5.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 14.400.000 đồng (mười bốn triệu bốn trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra, bị can Lô Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Ngoài ra, trước đó T còn vay của anh Nguyễn Văn Q số tiền 600.000 đồng và anh Nguyễn Văn Q1 số tiền 3.850.000 đồng, hẹn trong năm 2022 sẽ trả, anh Q và anh Q1 đồng ý .

Về vật chứng: đối với 02 chiếc điện thoại Iphone XS Max và Iphone 8 Plus, anh Hoàng L đã bán cho người khác không rõ lý lịch nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Lô Văn T đã tác động gia đình bồi thường cho anh Nguyễn Văn Q số tiền 9.600.000, anh Nguyễn Văn Q1 số tiền 9.250.000 đồng bao gồm tiền chiếm đoạt điện thoại và trả tiền vay của anh Q, anh Q1. Anh Q, anh Q1 không yêu cầu bồi thường, đề nghị gì khác và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T.

Tại bản Cáo trạng số 102/CT - VKSQY ngày 12/9/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố bị cáo Lô Văn T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điêu 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lô Văn T: từ 6 đến 9 tháng tù, thời hạn tù từ ngày bắt 08/7/2022. Về bồi thường: gia đình bị cáo đã bồi thường cho hai bị hại giá trị hai chiếc điện thoại và trả số tiền Lô Văn T vay của anh Q, anh Q1.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Lô Văn T trình bày: đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo Lô Văn T được hưởng mức án thấp nhất Viện kiểm sát đề nghị.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo tranh luận, đối đáp nhau về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội:

[1] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo Lô Văn T khai nhận hành vi mượn hai chiếc điện thoại của anh Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn Q1 và bán lấy tiền phù hợp với nội dung bản Cáo trạng. Thể hiện: bị cáo đã mượn hai chiếc điện thoại của anh Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn Q1. Sau khi mượn điện thoại của anh Q, anh Q1 bị cáo đã nảy sinh ý định mang bán lấy tiền. Gia đình bị cáo đã bồi thường giá trị hai chiếc điện thoại và trả tiền bị cáo đã vay cho anh Q, anh Q1.

Bị hại anh Nguyễn Văn Q, anh Nguyễn Văn Q1 khai: buổi trưa ngày 28/5/2022, anh Q cho T mượn điện thoại di động Iphone XS Mas để về quê, hẹn ngày 09/6/2022 trả điện thoại. Buổi tối ngày 07/6/2022, anh Q1 cho T mượn điện thoại di động Iphone 8 Plus để liên lạc với gia đình, hẹn sáng ngày 08/6/2022 trả điện thoại. Nhưng đến ngày hẹn trả điện thoại nhưng T nói đã mang điện thoại đi làm tin để vay tiền. Ngày 22/6/2022, anh Q không liên lạc được với T. Đến ngày 08/7/2022, anh Q, anh Q1 đến Công an phường M, thị xã Q trình báo sự việc. Ngày 17/7/2022, gia đình T đã bồi thường giá trị hai chiếc điện thoại và trả tiền vay trước đó của T nên anh Q, anh Q1 không đề nghị gì thêm và có xin giảm nhẹ hình phạt cho T.

Đại diện hợp pháp của hai bị hại bà Nguyễn Thị L khai: gia đình bị cáo T đã bồi thường tiền hai chiếc điện thoại và trả tiền T đã vay cho hai con bà là Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn Q1. Bà Lực xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Lô Văn T.

Người làm chứng anh Hoàng L khai: anh L có mua hai chiếc điện thoại Iphone Xs Max và Iphone 8 Plus của Lô Văn T. Anh L không biết hai chiếc điện thoại T bán là do phạm tội mà có. Anh L đã bán hai chiếc điện thoại cho khách hàng không rõ lai lịch.

Người làm chứng anh Lý Văn K, anh Trần Đức M khai: ngày 28/5/2022, anh Q có đến ký túc xá cho Lô Văn T mượn chiếc điện thoại Iphone XS Max. Khoảng giữa tháng 6.2022 anh Q, anh Q1 có đến đòi điện thoại T nhiều lần.Như vậy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác trong vụ án. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ ngày 28/5/2022 đến ngày 10/6/2022, tại phường M, thị xã Q, tỉnh Q, Lô Văn T có hành vi mượn hai chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu đen và Iphone 8 Plus, màu hồng của anh Nguyễn Văn Q và anh Nguyễn Văn Q1 tổng giá trị là 14.400.000 đồng rồi mang đi bán lấy tiền đánh bạc qua mạng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lô Văn T phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Điều 175 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

.b. Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” [2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sở hữu tài sản của công dân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội được pháp luật bảo vệ. Lợi dụng sự quen biết anh Nguyền Văn Quyền, anh Nguyễn Văn Q1 bị cáo Lô Văn T đã có hành vi mượn hai chiếc điện thoại iphone XS Max và iphone 8 plus trị giá 14.400.000 đ mang bán lấy tiền đánh bạc qua mạng. Cho nên, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Cho nên việc đưa bị cáo ra xử lý trước pháp luật là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phòng chống các tội phạm xâm phạm sở hữu về tài sản trong tình hình hiện nay.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Lô Văn T thực hiện hành vi phạm tội hai lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi vi phạm. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về bồi thường: gia đình bị cáo Lô Văn T đã bồi thường giá trị hai chiếc điện thoại, trả số tiền bị cáo T vay của anh Q, anh Q1. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xét.

[6] Vấn đề khác: đối với hành vi đánh bạc qua mạng của Lô Văn T, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được đối tượng đánh bạc với T. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau. Đối với số tiền T vay của anh Q, anh Q1 là quan hệ dân sự nên không xét.

[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 NQ 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt:

Tuyên bố: bị cáo Lô Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lô Văn T: 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/7/2022.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo: căn cứ khoản 1-2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lô Văn T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 102/2022/HS-ST

Số hiệu:102/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về