Bản án về tội giết người số 825/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 825/2022/HS-PT NGÀY 17/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 17 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1027/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Lưu Quang N bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

* Bị cáo có kháng cáo:

u Quang N, sinh năm 1974; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B; Trình độ học vấn: 4/12; Nghề Nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lưu Quang T1, sinh năm 1952 và bà Trần Thị T2, sinh năm 1952; Gia đình có 04 anh em, bị can là thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1976; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị b t tạm giam t ngày 17/11/2020 đến nay, Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo N (do Tòa án chỉ định): Ông Nguyễn Thanh B1 – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Bình Minh thuộc Đoàn luật sư tỉnh B, có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Ông Trần Văn T3, sinh năm 1961; HKTT: Khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B (bố đẻ anh Trần Văn L), có mặt.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại: Ông Lại Huy P – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Huy Phát – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Đa chỉ: 101A3 ngõ 128C phố Đ1, phường Đ2, quận H1, thành phố Hà Nội, có mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

u Quang N và Trần Văn L có quen biết nhau và cùng ở Khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B.

Khong 6 giờ ngày 20/10/2020, Trần Văn L đi xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh, không có biển kiểm soát đến lán ở của Lưu Quang N ở khu phố Đ.

N khai: Lúc này chỉ có một mình N đang nằm ngủ tại ghế sô pha ở trong lán. Trần Văn L cầm một thanh đao bằng kim loại màu tr ng, có đặc điểm dài 79,5cm, lưỡi đao dài 56cm, bản đao chỗ rộng nhất 10cm, đi vào trong lán, đến chỗ N đang nằm ngủ. L dùng thanh đao chém 01 nhát trúng vào đầu N. L tiếp tục vung đao lên chém phát thứ hai t trên xuống dưới, N giơ tay trái lên đỡ thì bị trúng vào mặt ngoài cẳng tay trái. Sau đó, N vùng dậy đi đến dùng tay phải đấm thẳng vào mặt L. N kẹp tay phải của L vào nách phải của mình đồng thời tay trái N vòng qua cổ và quật ngã L xuống nền nhà. Lúc này, hai tay L vẫn n m chặt chuôi đao, N và L vật lộn nhau ra đến cửa lán thì N đè được lên người L ở tư thế nằm ngửa, tay trái N giữ tay phải của L, tay phải N đấm liên tiếp vào mặt L. Bị đánh, L buông tay phải khỏi chuôi đao còn tay trái vẫn cầm đao. L đưa tay phải xuống túi quần phía sau của L lấy một con dao gấp bằng kim loại, màu tr ng dài 23cm, phần lưỡi dao dài 10cm, đầu mũi dao nhọn, dao có một lưỡi s c, bản lưỡi dao chỗ rộng nhất 2,5cm. Thấy vậy, N dùng tay trái giữ tay cầm dao của L, còn tay phải tiếp tục đấm vào mặt L.

Bị đánh, L buông tay trái đang cầm chuôi đao ra. N liền cầm thanh đao đứng dậy. Lúc này, L ở tư thế ngồi xổm, tay phải L vẫn cầm dao bấm, còn N đứng ở tư thế đối diện. N cầm đao vung lên chém liên tiếp nhiều nhát, theo nhiều chiều hướng khác nhau vào vùng đầu, vùng mặt và chân tay của L. N thấy L gục ngã xuống không chống cự được nữa thì N d ng lại, cầm đao và nhặt dao đi ra ngoài đường.

N khai, đi ra đường với mục đích để gọi người đưa N đi bệnh viện, nhưng N không gặp ai. N quay vào trong nhà rồi vứt đao và dao xuống đất (gần cửa sổ đầu hồi lán, sát gần đường đi).

Lúc này, anh Trần Đức H2, sinh năm 1969, ở cùng khu phố Đ, đi qua cổng lán nhà N nhìn thấy L nằm gục ở của lán nhà N và nhìn thấy N bị thương.

Anh H2 gọi điện thoại cho anh Lưu Quang B2, sinh năm 1972 và Lưu Quang T4, sinh năm 1977 là anh em ruột của N đến đưa N đi cấp cứu.

Khong 07 giờ cùng ngày, anh Trần Văn T5, sinh năm 1990, cùng ở khu phố Đ là người có xe ô tô, được người dân đến gọi đưa N đi cấp cứu. Anh T5 điều khiển xe ô tô đến cổng nhà N thì N cùng anh B2, anh T4 tự đi ra và lên xe ô tô. Anh T5 đi được khoảng 20m, anh T5 nhìn qua gương chiếu hậu của xe ô tô thấy có người vẫy gọi nói: “còn có người nữa đưa đi cấp cứu thể” và anh T5 nghe thấy người dân đứng ở đường nói L bị thương. Anh T5 d ng xe lại thì N nói: “Thôi kệ nó, cứ đi đi”. Trên đường đi cấp cứu N có nói lại cho anh B2, anh T4 nghe việc N bị L chém vào đầu và tay thì N giằng được đao chém liên tiếp vào người L.

N được đưa đến Trung tâm y tế thị xã T cấp cứu, điều trị, đến 16 giờ cùng ngày gia đình xin chuyển N đến Bệnh viện quân y 108 Bộ quốc phòng, nhưng Bệnh viện không tiếp nhận nên gia đình đưa N về Trung tâm y tế thị xã T, tỉnh B điều trị đến ngày 04/11/2020 thì ra viện. Ngay trong ngày 04/11/2020, N lại được gia đình đưa đến Bệnh viện đa khoa Kinh B c, B điều trị tiếp đến ngày 17/11/2020 thì ra viện.

Đi với Trần Văn L, bị N chém bị thương đã được anh Trần Kh c Đ3, sinh năm 1968 ở khu phố Đ, C, thị xã T, tỉnh B báo cho ông Trần Văn T3 là bố đẻ, Trần Văn N1 là chú ruột và Trần Kh c H3 là cậu ruột của L để đưa đến Bệnh viện đa khoa Đ4, L1, Hà Nội cấp cứu. Do vết thương nặng, Bệnh viện Đa khoa Đ4 đã chuyển L đến Bệnh viện V Hà Nội cấp cứu và điều trị đến ngày 22/10/2020 thì tử vong.

Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và trưng cầu giám định.

* Km nghiệm hiện trường:

Hiện trường xảy ra vụ việc khu vực lán nhà anh Lưu Quang N, sinh năm 1974, tại khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B.

Tại mặt trong và mép ngoài cánh cổng bên trái, vị trí cách đất 30cm, cách tường hướng đông nam 92 cm, có 01 dấu vết màu nâu đỏ kích thước (0,5X1cm) dạng nhỏ nhọt, chiều hướng t trên xuống dưới. Mặt ngoài cánh cổng bên phải vị trí cách đất 1,1m, cách tường hướng tây 1,5m có dấu vết màu nâu đỏ dạng quệt đã khô.

Trên nền phòng sát vách tôn phía Tây có rải rác chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt và một số sợi lông màu đen (nghi tóc) trên diện tích (1,6x1,8). Tâm vết này cách vách tôn phía Tây 1,5m và cách vách tôn phía B c 3,3 m.

Mặt vách tôn phía Tây tương ứng vị trí phát hiện thấy một số vết bám dính chất màu nâu đỏ dạng b n rải rác không liên tục trên diện tích (1,3x1,2)m. Vị trí chất màu nâu đỏ tại nền phòng và vách tôn (ký hiệu số 01).

Trên nền phòng sát vách tôn phía nam rải rác có nhiều chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt trên diện tích (1,3x1,7)m. Tâm đám này cách vách tôn phía Nam 85 cm và cách mép cửa ra vào 1,9m (ký hiệu số 02).

Tại vị trí nền nhà giáp mép cửa ra vào có nhiều chất màu nâu đỏ dạng quệt và nhỏ giọt trên diện tích (2,9 x1,5)m, trong diện này phát hiện 01 đôi giầy thể thao, màu xanh (ký hiệu số 03).

Trên nền hiên vị trí trước cửa nhà phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda vision màu tr ng biển số 99G1-131.60. Mặt nạ đầu xe, cánh yếm bên trái và ch n bùn phía trước bánh trước xe mô tô rải rác bám dính chất màu nâu dạng quệt và nhỏ giọt (ký hiệu số 04);

Trên nền sân lối đi vào nhà, vị trí sát vách tôn nhà phía Nam và cách tường nhà anh Tuyển 2,2m phát hiện 01 thanh đao bằng bằng kim loại màu sáng tr ng dài 79,5cm, phần chuôi đao dài 23,5cm, phần lưỡi đao dài 56cm, đao một lưỡi s c đầu đao nhọn vát nên trên, bản đao rộng nhất 10cm, phần lưỡi đao bị cong vênh hình chữ S. Toàn bộ bề mặt thanh đao có bám dính nhiều chất mầu nâu đỏ (ký hiệu số 05). Ngay cạnh vị trí thanh đao này trên nền sân phát hiện 01 chiếc dao (dạng dao gấp) bằng kim loại màu tr ng sáng dài 23cm, phần chuôi dao dài 13cm, lưỡi dao dài 10cm, dao gồm mũi nhọn, một lưỡi s c, phần lưỡi rộng nhất 2,5cm, trên dao có bám dính ít chất màu nâu đỏ rải rác.

Trên nền lối đi vào nhà N vị trí giáp tường sân phía Đông và cách mép cổng ra vào 2,5m phát hiện 01 chiếc vỏ chăn và áo cũ cuộn thành đống (ký hiệu số 06).

Xem xét phía ngoài đường bê tông đối diện cổng nhà N, trên nền đường có đám chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt và bám dính trên diện tích (1,4x1,1)m, tâm đám này cách tường phía Đông nhà ông Đ3 (M) 0,9m và cách mép cổng ra vào nhà anh N 8,5m (ký hiệu số 07).

Quá trình khám nghiệm thu giữ các vật chứng sau:

- Chất màu nâu đỏ, trên nền phòng sát vách tôn phía Tây, có rải rác chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt trên diện tích (1,6x1,8)m (ký hiệu A1).

- Thu giữ trên nền phòng sát vách tôn phía Nam rải rác có chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt trên diện tích (1,3x1,7)m (ký hiệu A2).

- Chất màu nâu đỏ ở vị trí trước cửa ra vào lán (ký hiệu A3).

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 99G1-131.60 tại vị trí trước cửa ra vào lán, tiến hành thu giữ chất màu nâu đỏ bám dính trên xe (ký hiệu A2).

- 01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu ASA màu tr ng, một đôi giầy thể thao màu xanh tại vị trí trước cửa ra vào lán.

- Thu giữ 01 thanh đao bằng kim loại màu sáng tr ng dài 79,5cm, phần lưỡi đao dài 56cm, bản đao chỗ rộng nhất 10cm, đao một lưỡi s c, đầu đao nhọn vát lên trên, lưỡi dao bị cong vênh hình chữ S, chuôi đao dài 23,5cm bám dính nhiều chất màu nâu đỏ (ký hiệu D1) và 01 con dao dạng dao gấp bằng kim loại màu sáng tr ng, dài 23cm, chuôi dao dài 13cm, lưỡi dao dài 10cm, dao có một mũi nhọn, một lưỡi s c, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 2,5cm, dao bám dính chất màu nâu đỏ (ký hiệu D2) tại vị nền sân, sát vách tôn nhà phía Nam.

- Thu giữ chất màu nâu đỏ trên cánh cổng nhà Lưu Quang N (ký hiệu A4).

- Thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh, không đeo biển kiểm soát tại cột điện trước cổng nhà N. Kiểm tra xe phát hiện thu giữ chất màu nâu đỏ bám dính trên xe (ký hiệu A3).

- Thu giữ chất màu nâu đỏ trên mặt đường t cổng nhà N đến mép tường hồi nhà ông Đ3 có vợ tên là M (ký hiệu A5) (BL 32).

*Khám nghiệm tử thi:

- Vết thương đuôi cung mày và thái dương phải dài 9cm, khâu 12 mũi chỉ, sau c t chỉ vết thương có kích thước (9x1,5)cm bờ mép phẳng gọn, đáy vết thương nằm trên cơ thái dương.

- Nhiều vết sây sát da nhỏ vùng trán trên cung mày phải tập trung trên diện tích (4x4)cm, da xung quanh màu tim nhạt trên diện tích (12x10)cm.

- Vết thương đuôi m t phải, dài 1,7cm, đã khâu 2 mũi chỉ, bở mẹp phẳng gọn.

- Vết thương vùng trán – đỉnh – thái dương bên trái hình vòng cung, dài 14cm, khâu 13 mũi chỉ, bở mép phẳng gọn, c t chỉ vết thương thấy lộ xương sọ bị vỡ kèm khuyết xương. Qua lỗ khuyết xương thấy nhiều máu cục, gạc cầm máu.

- Vết thương vùng chẩm dài 7cm, khâu 8 mũi chỉ, bờ mép phẳng gọn, đáy vết thương sâu sát xương sọ.

- Vết thương vùng chẩm trái hình cung, bờ cong lên trên, dài 12,3cm, khâu 11 mũi chỉ, bờ mép phẳng gọn, đáy vết thương d ng lại ở tổ chức dưới da.

- Vết thương hình chữ H ở tai và sau tai trái với các cạnh dài 5,8cm; 2,7cm;

2,3cm và 5,8cm, đứt gần rời vành tai đã khâu 15 mũi chỉ, bở mép phẳng gọn.

- Bầm tím loang lổ vùng chẩm trái và sau tai trái, xung quanh các vết thương trên diện tích(16x13)cm.

- Bầm tím quanh m t hai bên.

- Vết thương môi dưới bên trái dài 0,7cm, bờ mép phẳng gọn, đuôi vết thương có vết sượt da dài 1,1cm. Bầm tụ máu niêm mạc môi tương ứng vị trí vết thương trên diện tích (2,5x0,7)cm.

- Sây sát da (3,5x2)cm, kém bầm tím lưng vai trái trên diện tích (13x3.5)cm.

- Vết bầm tím nhạt màu vùng th t lưng bên phải trên diện tích (16,5x5)cm.

- Sây sát da (7,2x1,5)cm và bầm tím vùng th t lưng - hông bên trái trên diện (18x9,5)cm.

- Bầm tím mặt trước khuỷu tay phải trên diện tích (14x9)cm.

- 03 vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải, vết dài nhất 6,5cm, nằm gần nếp gấp cổ tay, khâu bởi ba mũi chỉ, bờ mép phẳng gọn, đứt bó mạch thần kinh trụ, gân gấp cổ tay trụ, gãy xương trụ, vết thứ 2 dài 3,5cm, vết thứ 3 dài 1,5cm.

- Vết thương mu bàn tay phải dài 5cm, bở mép phẳng gọn, rách da đốt 1 ngón 4 dài 1cm trên diện tích sây sát bầm tím (19x9)cm.

- Vết thương mặt trước ngoài 1/3 giữa cẳng tay trái dài 10cm, khâu 6 mũi chỉ, sâu tới tổ chức cơ, vết thương 1/3 trên cẳng tay trái dài 16cm, khâu 8 mũi chỉ, đứt hoàn toàn khối cơ duỗi, gẫy 2 xương cẳng tay; 02 vết thương mặt ngoài 1/3 dưới cũng tay trái kích thước (1,5x1)cm và (1x0,8)cm được khâu 1 mũi chỉ.

- Sây sát da mặt trước đùi bên phải, kích thước (12,5x0,2)cm và (6x0,4)cm trên diện tích bầm tím (21x3)cm.

- Vết thương mặt trước 1/3 dưới cẳng chân phải 12cm, khâu 5 mũi chỉ, c t chỉ vết thương kích thước (11x2,6)cm, đáy vết thương lộ đường gãy xương chày đã được phẫu thuật kết hợp xương.

- Bầm tím mặt ngoài 1/3 trên đùi trái diện (27x24)cm, bề mặt da có các vết sây sát da nhỏ kích thước t (1,7x0,5)cm đến (9,5x0,7)cm.

- Bầm tím vùng mặt ngoài 1/3 trên cẳng chân trái diện (24x6)cm, trên đó có hai vết sây sát da kích thước (5,2x0,3)cm và (15x0,7)cm.

- Sây sát da đã đóng vảy gối bên trái trên diện tích (8x5)cm.

- Vết thương mặt ngoài cẳng chân trái kích thước (4,5x1,4)cm, cách gót chân 19cm, đáy vết thương chạm đến xương, kèm vết thương kích thước (3,3x0,6)cm, đuôi có vết sượt da dài 9,2cm.

- Vết thương hình chữ Y mặt ngoài cổ chân trái có nhánh dài 17cm, nhánh ng n 6,6cm, vết thương thấu khớp cổ chân, đứt gân duỗi các ngón và tổn thương mặt sụn xương sên.

* Giải phẫu tử thi:

- Vùng đầu: Tụ máu rộng dưới da đầu vùng đỉnh và thái dương hai bên, khuyết xương sọ vùng thái dương đỉnh bên trái kích thước (6x2)cm, đường vỡ lan lên trán đỉnh phải dài 11cm. Vỡ bản ngoài xương sọ vùng chẩm. Tụ máu trần hố mặt hai bên, tụ máu não vùng chán phải, thái dương trái.

- Ngực: Hố ngực khô, phổi căng to, nhạt màu, có nhiều chấm xuất huyết ở màng phổi, bao tim còn nguyên vẹn, nhiều chấm xuất huyết ở màng ngoài tim. Buồng tim rỗng, diện c t ngang cơ tim nhạt màu, động mạch vành hai bên xơ cứng, nhiều nơi hẹp lòng mạch.

- Bụng: Ổ bụng sạch, các tạng nhạt màu, không có tổn thương trên đại thể.

- Tại Bản giám định pháp y số 51/20/GĐPY ngày 02/12/2020 của Bệnh viện Hữu Nghị V, Hà Nội, kết luận:

+ Nguyên nhân tử vong của Trần Văn L 33 tuổi là đa vết thương sọ não - hàm mặt và tứ chi gây mất máu cấp, biến chứng suy đa tạng.

+ Đặc điểm của các vết thương trên cơ thể nạn nhân như đã nêu trong phần khám ngoài cho phép nhận định vật gây thương tích là vật có lưỡi sắc, trọng lượng lớn, tác động mạnh theo nhiều chiều hướng khác nhau”.

- Tại Bản kết luận giám định số 7491/C09-TT3 ngày 06/11/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:

Các chất màu nâu đỏ ký hiệu A1, A2, A3, A4 và A5 đều là máu người.

Trong đó:

- Các chất màu nâu đỏ ký hiệu A1, A2, A3, A4 đều là máu của Lưu Quang N.

- Chất màu nâu đỏ ký hiệu A5 là máu của Trần Văn L.

Các chất màu nâu đỏ bám dính trên thanh đao (ký hiệu D1) là máu lẫn của Lưu Quang N và Trần Văn L.

Các chất màu nâu đỏ bám dính trên con dao gấp (ký hiệu D2) là máu lẫn của Lưu Quang N và Trần Văn L”.

- Tại Bản kết luận pháp y về hoá pháp số 658/PY-XNĐH ngày 16/11/2020 của Viện pháp y Quân đội, kết luận:

+ Mẫu máu của Trần Văn L gửi giám định không có Ethanol.

+ Mẫu máu của Trần Văn L gửi giám định có Amphetamin, Methamphetamin.

+ Mẫu phủ tạng, dịch dạ dày của Trần Văn L gửi giám định không phát hiện thấy các chất độc kể trên”.

- Tại Bản kết luận giám định số 7568/C09-TT3 ngày 10/11/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:

+ Các dấu vết nghi máu trên chiếc quần ghi thu của Lưu Quang N (ký hiệu A1) là máu người và là máu của Lưu Quang N.

+ Các chất màu nâu đỏ gửi giám định (ký hiệu A2, A3) đều là máu của Lưu Quang N”.

- Tại Bản giám định pháp y về hung khí số 55/GĐPY ngày 25/12/2020 của Bệnh viện Hữu Nghị V, Hà Nội, kết luận:

Căn cứ vào đặc điểm hung khí, đặc điểm tổn thương trên cơ thể nạn nhân Trần Văn L, kết quả giám định gen trên hung khí và mẫu máu của nạn nhân, chúng tôi nhận định tổn thương trên cơ thể nạn nhân Trần Văn L phù hợp với hung khí là con đao thu giữ tại hiện trường do Cơ quan Công an tỉnh B cung cấp”.

- Về thương tích của Lưu Quang N: Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 186/TgT ngày 06/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận:

+ Thương tích đỉnh trái từ sau chếch trước đến giữa đỉnh, đầu sau trái vết thương cách đỉnh tai trái 11cm, đầu trước vết thương cách ấn đường 13cm, kích thước 20x0,3-0,7cm mép nơi gọn, nơi mờ, vùng giữa vết thương cứng chắc thấp hơn mép vết thương, không di động, còn 11 vết chân chỉ khâu, sẹo nề màu hồng nhạt liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.3. sẹo lớn = 3%.

+Thương tích 1/3 trên 1/3 giữa sau cẳng tay trái hình móc câu, đầu dưới cách mỏm trâm trụ 9cm, đầu trên cạnh bờ ngoài mỏm khuỷu, kích thước 20 (17- 3)cmx0,3cm mép gọn hồng nhạt liền sẹo tốt. Áp dụng chương 8 tỷ lệ tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục I.1. sẹo trung bình = 2%.

+ Vùng ngực bên trái vết sây sát gây rối loạn biến đổi sắc tố da. Áp dụng chương 8 tỷ lệ tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm. Mục V = 0,75%.

+ Chụp Citiscanner sọ não ngày 30/12/2020: Vỡ phức tạp xương đỉnh trái tạo nhiều mảnh nhỏ ít di lệch, trên diện rộng 30x50mm, tổn thương không lan quá khớp liên đỉnh. Áp dụng chương 1 tỷ lệ tổn thương cơ thể do tổn thương xương sọ và hệ thần kinh. Mục I.2.3 = 18%.

+ Đứt nhóm cơ cẳng tay sau đã khâu nối phục hồi, rối loạn cảm giác nông cẳng tay trái không có danh mục tính tỷ lệ % tổn thương cơ thể trong Thông tư 22.

+ Hình gãy cũ mỏm trâm trụ trái: Là tổn thương cũ không tính tỷ lệ % tổn thương cơ thể.

+ Cơ chế là do tác động ngoại lực bởi vật sắc.

Theo nguyên tắc cộng lùi tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22,63% (Hai hai phẩy sáu ba phần trăm). Làm tròn 23% (Hai ba phần trăm)”.

Ti công văn số 59 ngày 02/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh B, khẳng định về kết quả giám định thương tích đối với Lưu Quang N như sau : “Vỡ phức tạp xương đỉnh (30x50mm) là xương của vòm sọ. Áp dụng chương 1 Mục I.2.3 thông tư 22/TT-BYT là đúng, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18%. Theo nguyên tắc cộng lùi trong Thông tư. Tổng tỷ lệ các tổn thương của Lưu Quang N là 23% hoàn toàn đúng danh mục tỷ lệ % tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư 22/TT- BYT”.

Ngày 04/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B có Công văn số 368/PC02 gửi Trung tâm pháp y tỉnh B cho biết: 02 hung khí có đặc điểm trên có thể tạo ra những vết thương có đặc điểm, kích thước trên cơ thể bị can Lưu Quang N như mô tả trong hồ sơ bệnh án không? Nếu có thể tạo ra vết thương thì giải thích rõ hung khí nào có thể gây nên vết thương nào trên cơ thể bị can Lưu Quang N.

Ngày 05/3/2021, Trung tâm pháp y tỉnh B có Công văn số 43/CV-PYT trải lời: Qua phân tích và so sánh kích thước, mức độ, tính chất của thương tích trên cơ thể Lưu Quang N với kích thước 02 hung khí được nêu trong Công văn số 368/PC02 của Công an tỉnh B. Trung tâm pháp y tỉnh B nhận thấy: Vật gây thương tích là vật có lưỡi không thẳng, dài trên hoặc bằng 17cm, lưỡi sắc và có trọng lượng tương đối. Trung tâm pháp y hướng đến cây đao có thể gây thương tích trên.

Ngày 26/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B có Công văn số 869/PC02 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B để xác định: Hung khí gây thương tích trên cơ thể bị can Lưu Quang N và tự Lưu Quang N có gây được ra thương tích cho mình không?.

Ti công văn số 322/CV-PC09, ngày 14/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B xác định:

- Con đao gửi giám định có thể gây ra vết thương vùng đầu và vùng mặt sau cẳng tay trái của bị can Lưu Quang N như mô tả trong hồ sơ bệnh án nếu có lực tác động và tư thế phù hợp.

- Với con đao nêu trên tự bị can Lưu Quang N có thể gây ra được vết thương vùng mặt sau cẳng tay trái của mình. Với vết thương ở vùng đầu của bị can Lưu Quang N khó có khả năng tự mình gây ra.

- Con dao gấp gửi giám định không gây ra được vết thương vùng đầu và vùng mặt sau cẳng tay trái của Lưu Quang N như mô tả trong hồ sơ bệnh án.

Ngày 26/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B ra Quyết định trưng cầu giám định AND. Tại Bản kết luận giám định số 3213/C09-TT3 ngày 06/5/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:

Trên hai đôi giầy gửi giám định có bám dính máu người. Không thu được kiểu gen từ các vết máu người này do chất lượng dấu vết kém.

* Thu giữ vật chứng gồm:

- Thu giữ chất màu nâu đỏ trên nền phòng sát vách tôn phía Tây.

- Thu giữ chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt trên nền phòng sát vách tôn phía Nam.

- Thu giữ chất màu nâu đỏ ở vị trí trước cửa ra vào lán.

- Thu giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 99G1-131.60 tại vị trí trước cửa ra vào lán và thu giữ chất màu nâu đỏ bám dính trên xe. Xác định đây là xe mô tô của N. Người đứng tên đăng ký xe là anh Phạm Đăng C1, sinh năm 1989 trú tại: khu C2, phường N2, thành phố B, tỉnh B. Năm 2015, anh C1 đã bán chiếc xe mô trên với giá 9.000.000đồng, bán cho ai anh C1 không nhớ.

- Thu giữ 01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu ASA màu tr ng, 01 đôi giầy thể thao màu xanh tại vị trí trước cửa ra vào lán.

- Thu giữ 01 thanh đao bằng kim loại màu sáng tr ng dài 79,5cm, phần lưỡi đao dài 56cm, bản đao chỗ rộng nhất 10cm, đao một lưỡi s c, đầu đao nhọn vát lên trên, lưỡi dao bị cong vênh hình chữ S, chuôi đao dài 23,5cm bám dính nhiều chất màu nâu đỏ tại vị trí nền sân, sát vách tôn nhà phía Nam.

- Thu giữ 01 con dao dạng dao gấp bằng kim loại màu sáng tr ng, dài 23cm, chuôi dao dài 13cm, lưỡi dao dài 10cm, dao có một mũi nhọn, một lưỡi s c, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 2,5cm, dao bám dính chất màu nâu đỏ tại vị trí nền sân, sát vách tôn nhà phía Nam.

- Thu giữ chất màu nâu đỏ trên cánh cổng nhà Lưu Quang N.

- Thu 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh, không đeo biển kiểm soát tại cột điện trước cổng nhà N và chất màu nâu đỏ bám dính trên xe. Xác định xe mô tô này do L đi đến. Xe mô tô này có BKS: 99B1-445.91, là xe của anh Trần Văn T6, sinh năm 1997 trú tại: Khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B. Anh Tài cho Trần Văn L (nạn nhân) là anh con bác ruột của anh Tài quản lý, sử dụng.

- Thu giữ chất màu nâu đỏ trên mặt đường t cổng lán nhà N đến mép tường hồi nhà ông Đ3 có vợ tên là M.

- Quá trình điều tra thu giữ: 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 chiếc điện thoại di động của Lưu Quang N. Tiến hành kiểm tra điện thoại, phần tin nh n không phát hiện có dữ liệu liên quan đến tội phạm “giết người”.

- Thu giữ 01 đoạn video t Camera an ninh.

Về nguồn gốc đao và con dao: Bị cáo N khai, thanh đao và con dao có đặc điểm nêu trên là do L mang đến chém N. Sau đó N vật lộn giằng được thanh đao và chém L.

Quá trình điều tra, Lưu Quang N khai nhận hành vi phạm tội của mình. N khai, N chém L là do L mang đao đến chém N trước. Còn L đến nhà và chém N là do trước đây N có nợ anh Trần Văn T7, sinh năm 1984 (là anh trai của L) ở cùng khu phố Đ số tiền khoảng 700 triệu đồng là tiền N thua cá độ bóng đá. L là em trai T7 nên đã nhiều lần đến lán của N đòi nợ nhưng N không trả. N cho rằng đây là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa L và N.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra hành vi phạm tội của Lưu Quang N. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp với tài liệu được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, như vật chứng thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, giám định nguyên nhân chết, giám định thương tích, giám định dấu vết.

* Trách nhiệm dân sự:

Sau khi Trần Văn L bị chết, gia đình L khai chi phí chữa trị vết thương và mai táng hết tổng số tiền 415.400.000 đồng. Gia đình L yêu cầu N phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Đến nay N chưa bồi thường cho gia đình L.

Đối với Lưu Quang N, sau khi bị thương đã phải đi Bệnh viện cấp cứu và điều trị vết thương. Số tiền chi phí điều trị thương tích cho N, đến nay gia đình bị can N chưa cung cấp. N yêu cầu gia đình L bồi thường tiền chi phí chữa trị vết thương và tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lưu Quang N phạm tội “Giết người”.

1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo:

u Quang N 20 (Hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính t ngày b t tạm giam 17/11/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 590, 591 BLDS: Buộc bị cáo Lưu Quang N phải bồi thường 338.200.000 đồng (Ba trăm ba mươi tám triệu hai trăm ngàn đồng) cho gia đình bị hại. Buộc Trần Văn L phải bồi thường cho Lưu Quang N 126.500.000 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu, năm trăm ngàn đồng). Đối tr , Lưu Quang N còn phải bồi thường cho gia đình bị hại 211.700.000 đồng (Hai trăm mười một triệu, bẩy trăm ngàn đồng). Xác nhận gia đình bị cáo N đã nộp 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) tại biên lai số 0000208 ngày 27/9/2021 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

Bị cáo Lưu Quang N có nghĩa vụ cấp dưỡng cho hai cháu Trần Hoàng Q sinh ngày 17/9/2007 và Trần Phương V1 sinh ngày 18/10/2009 mỗi cháu một tháng là 1.500.000 đồng (Một triệu, năm trăm ngàn đồng) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trả lại cho bị cáo Lưu Quang N 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 99G1-131.60; 01 điện thoạt di động nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý các vật chứng khác, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/10/2021, bị cáo Lưu Quang N có đơn kháng cáo với nội dung bị cáo bị xét xử không đúng tội danh, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

Ngày 11/10/2021, người đại diện hợp pháp của người bị hại - Ông Trần Văn T3 có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lưu Quang N giữ nguyên nội dung kháng cáo cho rằng:

Về tội danh: Bị cáo không phạm tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự vì bị cáo N chỉ là người phòng vệ chính đáng. Trong máu của L có chất ma túy, L mang hung khí đến chém khi bị cáo N đang ngủ. Hành vi của L rõ ràng là nguy hiểm cho xã hội có thể dẫn đến chết người, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của N. Hành vi chống trả của N là tương xứng, cần thiết để bảo vệ, ngăn chặn, đẩy lùi hành vi đang tấn công của L để phòng vệ chính đáng, do đó không phải là tội phạm.

Về trách nhiệm dân sự: Trước khi N chém L thì L đã chém N với tỷ lệ thương tật 23% nên đây là hành vi “Giết người” của L. Do đó, L cũng phải chịu trách nhiệm đối với thương tích L đã gây ra cho bị cáo. Hai bên đều bị thiệt hại và đều có lỗi nên phải được đối tr trách nhiệm. Tòa án sơ thẩm buộc bị cáo N phải bồi thường cho gia đình anh L tổng số tiền 336.000.000 đồng là quá cao, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét khấu tr tiền bồi thường cho gia đình bị hại vào chi phí điều trị thương tích cho bị cáo N.

Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 99G1- 131.60 của bị cáo mua sử dụng nhưng chưa sang tên trước bạ không liên quan đến vụ án cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Lưu Quang N thống nhất với nội dung trình bày kháng cáo tại phiên tòa của bị cáo, không có ý kiến gì thêm.

Đi diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8 giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì việc điều tra chưa đầy đủ.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bị hại không đồng tình với quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo. Không có căn cứ cho thấy L mang đao đến nhà N qua trích xuất camera; qua dấu vết tại hiện trường cho thấy không có căn cứ đề cho rằng L chém vào đầu và bụng, tay N. Nếu cho rằng L chém N hai nhát nhưng bị cáo lại chém L rất nhiều nhát trong khi bản năng của N là người có võ thì việc bị cáo khống chế mà không gây sát thương cho L là trong khả năng của N nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm đến cùng dẫn đến cái chết của anh L.

Không có căn cứ để cho rằng L là người chém trước trong khi nhân chứng nhìn thấy N cầm đao và dao có dính máu. Do vậy, L không phải là người mang hung khí đến lán của N mà con đao N dùng chém L là đao của N. Không loại tr N tự gây thương tích cho mình sau khi chém L để hòng giảm nhẹ tội.

Việc điều tra vụ án chưa đầy đủ, các kết quả giám định không khách quan; mức hình phạt 20 năm tù đối với bị cáo Lưu Quang N là không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là không có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm về vụ án: Sau khi phân tích, đánh giá thấy rằng: Vụ án không có chứng cứ trực tiếp, không có căn cứ để khẳng định L mang đao đến và chém bị cáo N trước. Chỉ có L và N đánh nhau nên Lưu Quang N và anh Trần Văn L phải chịu trách nhiệm và hậu quả gây ra của mỗi người. Tuy nhiên anh L đã tử vong. Khám nghiệm tử thi cho thấy anh L bị rất nhiều thương tích, hành vi chém anh L của N là N nhân dẫn đến cái chết của anh L nên Tòa án sơ thẩm tuyên bố Lưu Quang N phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự với tình tiết “Có tính chất côn đồ” là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Mặc dù cho rằng hành vi của bị cáo chém L là nhằm chống trả khi bị L chém để bảo vệ, ngăn chặn, đẩy lùi hành vi đang tấn công của L để phòng vệ chính đáng, do đó không phải là tội phạm nhưng quá trình điều tra cũng như tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo Lưu Quang N đều khai nhận hành vi dùng đao, dao chém gây ra những vết thương trên cơ thể anh Trần Văn L như các kết quả giám định thể hiện nên Tòa án sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

Quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bị hại về việc tự bị cáo gây ra vết thương là không có cơ sở.

Tòa án sơ thẩm đã căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Lưu Quang N 20 năm tù về tội “Giết người” và buộc bị cáo Lưu Quang N phải bồi thường 338.200.000 đồng cho gia đình bị hại; Buộc Trần Văn L phải bồi thường cho Lưu Quang N 126.500.000 đồng. Đối tr , Lưu Quang N còn phải bồi thường cho gia đình bị hại 211.700.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lưu Quang N, không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, luận cứ bào chữa của luật sư, của bị cáo và đại diện hợp pháp của gia đình bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Kháng cáo của bị cáo Lưu Quang N và kháng cáo của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8 thực hiện trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Mặc dù không có chứng cứ trực tiếp để xác định anh Trần Văn L mang đao đến và chém bị cáo Lưu Quang N trước nhưng qua khám nghiệm dấu vết hiện trường và khám nghiệm thương tích của bị cáo cũng như của bị hại, nguyên nhân tử vong của bị hại có cơ sở để khẳng định khoảng 6 giờ 00 phút ngày 20/10/2020, Trần Văn L đi xe mô tô đến lán ở của Lưu Quang N ở Khu phố Đ, phường C, thị xã T, tỉnh B. Tại đây đã xảy ra xung đột giữa bị cáo N với anh Trần Văn L. Cả hai vật lộn, dùng dao chém nhau. Anh L đã dùng thanh đao kim loại sáng tr ng dài 79,5cm, lưỡi đao dài 56cm, bản đao chỗ rộng nhất 10cm chém vào đầu và tay của bị cáo N. Bị cáo Lưu Quang N dùng tay đấm liên tiếp vào mặt anh L và dùng chính thanh đao kim loại nêu trên chém liên tiếp nhiều nhát theo nhiều chiều hướng khác nhau vào vùng đầu, mặt và chân tay của anh L cho đến khi thấy anh L gục ngã không chống cự được thì bị cáo mới d ng lại, cầm đao và nhặt một con dao gấp bằng kim loại, màu tr ng dài 23cm, phần lưỡi dao dài 10cm, đầu mũi dao nhọn, dao có một lưỡi s c, bản lưỡi dao chỗ rộng nhất 2,5cm đi ra ngoài. Thậm chí, khi biết anh L đã bị trọng thương có thể chết nhưng khi Trần Văn T5 (người điều khiển xe ô tô chở bị cáo đi cấp cứu) d ng xe lại để chở anh L thì bị cáo nói “Thôi kệ nó, cứ đi đi” bỏ mặc hậu quả chết người có thể xảy ra đối với bị hại. Trên đường đi cấp cứu N có nói lại cho anh B2, anh T4 nghe việc N bị L chém vào đầu và tay thì N giằng được đao chém liên tiếp vào người L.

Đi với Trần Văn L bị N chém bị thương đã được anh Trần Kh c Đ3 báo cho người thân của L để đưa đến Bệnh viện đa khoa Đ4, quận L1, thành phố Hà Nội cấp cứu. Do vết thương nặng, Bệnh viện Đa khoa Đ4 đã chuyển L đến Bệnh viện V Hà Nội cấp cứu và điều trị đến ngày 22/10/2020 thì tử vong.

Tại Bản giám định pháp y số 51/20/GĐPY ngày 02/12/2020 của Bệnh viện Hữu Nghị V, thành phố Hà Nội, kết luận:

“+ Nguyên nhân tử vong của Trần Văn L 33 tuổi là đa vết thương sọ não - hàm mặt và tứ chi gây mất máu cấp, biến chứng suy đa tạng.

+ Đặc điểm của các vết thương trên cơ thể nạn nhân như đã nêu trong phần khám ngoài cho phép nhận định vật gây thương tích là vật có lưỡi s c, trọng lượng lớn, tác động mạnh theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 186/TgT ngày 06/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lưu Quang N do thương tích gây nên 23% (Hai mươi ba phần trăm).

Tại công văn số 59 ngày 02/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh B, khẳng định về kết quả giám định thương tích đối với Lưu Quang N như sau: “Vỡ phức tạp xương đỉnh (30x50mm) là xương của vòm sọ…”.

Ngày 05/3/2021, Trung tâm pháp y tỉnh B có Công văn số 43/CV- PYT trả lời: Qua phân tích và so sánh kích thước, mức độ, tính chất của thương tích trên cơ thể Lưu Quang N với kích thước 02 hung khí được nêu trong Công văn số 368/PC02 của Công an tỉnh B. Trung tâm pháp y tỉnh B nhận thấy: Vật gây thương tích là vật có lưỡi không thẳng, dài trên hoặc bằng 17cm, lưỡi sắc và có trọng lượng tương đối. Trung tâm pháp y hướng đến cây đao có thể gây thương tích trên.

[3] Bị cáo kháng cáo cho rằng L mang hung khí đến chém trong khi bị cáo đang ngủ có thể dẫn đến chết người, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của mình nên bị cáo tước đao và dao chống trả để bảo vệ, ngăn chặn, đẩy lùi hành vi đang tấn công là phòng vệ chính đáng, không phải là tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo là người có võ đã th a nhận việc khống chế, tước được hung khí của anh L khi tấn công bị cáo nên việc chém trả quyết liệt là không cần thiết. Quá trình điều tra cũng như tại các phiên tòa, Lưu Quang N đều th a nhận cầm đao chém liên tiếp nhiều nhát theo nhiều chiều hướng khác nhau vào đầu, vào mặt và chân tay của Trần Văn L đến khi L gục ngã không chống cự được thì N d ng lại, đây không phải là hành vi chống trả tương xứng. Anh Trần Văn L tử vong là hậu quả của hành vi do Lưu Quang N đã thực hiện nên bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả chết người xảy ra. Hành vi của bị cáo đã thể hiện rất rõ tính chất côn đồ và đã tước đoạt mạng sống của người bị hại. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Lưu Quang N về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự với tình tiết “Có tính chất côn đồ” là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh của bị cáo Lưu Quang N không có cơ sở chấp nhận.

[5] Cơ quan điều tra không làm rõ được nguồn gốc của 01 thanh đao bằng kim loại màu sáng tr ng và 01 con dao dạng dao gấp bằng kim loại màu sáng tr ng đều là vật chứng bị thu giữ của vụ án có lưu dấu máu của cả bị cáo và của bị hại; không làm rõ được ai là người tấn công trước nên không có cơ sở khẳng định do Trần Văn L chém trước nên bị cáo tước dao để chống trả, ngăn chặn, đẩy lùi hành vi đang tấn công của L như kháng cáo của bị cáo và quan điểm của Luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo.

[6] Quá trình điều tra cũng không chứng minh được việc L chém N là để phòng vệ chính đáng. Tòa án sơ thẩm căn cứ lời khai của bị cáo, kết quả thực nghiệm điều tra hành vi phạm tội của Lưu Quang N phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định dấu vết, giám định nguyên nhân chết của Trần Văn L, giám định thương tích của Lưu Quang N có đủ cở sở khẳng định việc Trần Văn L đi xe mô tô đến lán ở của Lưu Quang N ở khu phố Đ. Tại đây đã xảy ra xung đột, N và L vật lộn, dùng dao chém nhau. Cả L và N đều bị thương tích được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng đến ngày 22/10/2020 thì anh Trần Văn L tử vong còn bị cáo Lưu Quang N bị thương tích có tỷ lệ được giám định 23%. Tại công văn số 322/CV-PC09, ngày 14/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B xác định:

- Con đao gửi giám định có thể gây ra vết thương vùng đầu và vùng mặt sau cẳng tay trái của bị can Lưu Quang N như mô tả trong hồ sơ bệnh án nếu có lực tác động và tư thế phù hợp.

- Với con đao nêu trên tự bị can Lưu Quang N có thể gây ra được vết thương vùng mặt sau cẳng tay trái của mình. Với vết thương ở vùng đầu của bị can Lưu Quang N khó có khả năng tự mình gây ra.

Tòa án sơ thẩm nhận định trong quá trình xảy ra xô xát, anh L cũng sử dụng hung khí chém gây thương tích cho bị cáo N là có căn cứ. Không có cơ sở để khẳng định tự bị cáo gây ra vết thương cho bản thân để nhằm giảm nhẹ tội như quan điểm của của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại.

[7] Tòa án sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất, mức độ của tội phạm, phân tích hành vi, nhân thân của bị cáo, phần lỗi của người bị hại; xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để vận dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Lưu Quang N 20 (Hai mươi) năm tù là phù hợp, có căn cứ. Không có cơ sở chấp nhận kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8.

[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lưu Quang N kháng cáo cho rằng anh L và bị cáo đều bị thiệt hại và đều có lỗi nên phải được đối tr trách nhiệm. Tòa án sơ thẩm buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình anh L tổng số tiền 336.000.000 đồng là quá cao, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét khấu tr tiền bồi thường cho gia đình bị hại vào chi phí điều trị thương tích cho bị cáo N. Người đại diện theo pháp luật của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Lưu Quang N phải bồi thường số tiền 415.000.000 đồng chi phí mai táng; bồi thường tổn thất tinh thần 100 tháng lương tối thiểu và cấp dưỡng nuôi hai con anh L.

Tòa án sơ thẩm xác định bị cáo Lưu Quang N phải bồi thường cho gia đình anh Trần Văn L 338.200.000 đồng (Ba trăm ba mươi tám triệu hai trăm ngàn đồng); Buộc Trần Văn L phải bồi thường cho Lưu Quang N 126.500.000 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu năm trăm ngàn đồng). Đối tr , Lưu Quang N còn phải bồi thường cho gia đình bị hại 211.700.000 đồng (Hai trăm mười một triệu bảy trăm ngàn đồng). Xác nhận gia đình bị cáo N đã nộp 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) tại biên lai số 0000208 ngày 27/9/2021 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn buộc bị cáo Lưu Quang N có nghĩa vụ cấp dưỡng cho hai cháu Trần Hoàng Q sinh ngày 17/9/2007 và Trần Phương V1 sinh ngày 18/10/2009 mỗi cháu một tháng là 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8 không chứng minh được Tòa án sơ thẩm bỏ sót khoản chi phí hợp lý nào khác nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như kháng cáo của đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8.

[9] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 99G1-131.60 đã được Tòa án sơ thẩm tuyên trả lại cho bị cáo cùng với 01 điện thoạt di động nhưng bị cáo còn phải thi hành trách nhiệm bồi thường dân sự nên Tòa án sơ thẩm tuyên tạm giữ để đảm bảo thi hành án là đúng quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lưu Quang N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị cáo Lưu Quang N; Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại là ông Trần Văn T8; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

2. Bị cáo Lưu Quang N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 825/2022/HS-PT

Số hiệu:825/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về