Bản án về tội cướp tài sản số 935/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 935/2022/HS-PT NGÀY 26/10/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 26/10/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 661/2022/TLPT-HS ngày 06/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử số 633/2022/QĐXXPT-HS ngày 13/10/2022 đối với bị cáo Tạo Thị Thanh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: TẠO THỊ THANH H, sinh năm 1968; giới tính: Nữ; ĐKNKTT: Khu Đình, thị trấn HY, huyện HY, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; con ông Tào Văn S và bà Đinh Thị Hoàng Đ (Đều đã chết); tình trạng hôn nhân: Có chồng đã ly hôn là Nguyễn Văn Sáu và 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01 của Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bị hại không có kháng cáo:

1) Anh Lê Anh P, sinh năm 1969 (0966051516); trú tại: Khu 09, xã Ninh Dân, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

2) Anh Phạm Ngọc H, sinh năm 1990; trú tại: Khu 02, xã Đồng Xuân, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Anh Lê Anh P và Tào Thị Thanh H có quan hệ tình cảm và có với nhau 01 con chung là cháu Lê Anh D, sinh năm 2000. Năm 2004, Thanh Hương đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan; cháu Lê Anh D sống cùng anh P. Trong thời gian đi xuất khẩu lao động Thanh H có gửi 105.000.000 đồng về cho em dâu là Phạm Thị L (Sinh năm 1974; ĐKNKTT: Khu 6, xã PL, huyện K, tỉnh Phú Thọ) giữ hộ. Ngày 25/6/2007, anh P đã đến nhà Phạm Thị L yêu cầu đưa lại số tiền trên cho anh P và nói là tiền Thanh H gửi về để nuôi con. Khi nhận tiền, anh P có viết giấy vay nợ với L. Năm 2009, anh P kết hôn với chị Nguyễn Thị U (Sinh năm 1980; ĐKNKTT: Xã ND, huyện T, tỉnh Phú Thọ). Năm 2010, Thanh H về nước đến gặp anh P đòi số tiền trên nhưng anh P chưa trả. Khoảng 11 giờ ngày 03/12/2010, Thanh H rủ Phạm Thị L đi xe khách từ Phú Thọ về Hà Nội tìm anh P đòi tiền. Sau khi đến Hà Nội, H và L đi mua sắm và thuê nhà nghỉ; sau đó H gọi cho một nam thanh niên tên Thanh (Chưa xác định được nhân thân) làm phụ xe tại Bến xe Mỹ Đình và hẹn đến nhà nghỉ để nhờ đi tìm anh P nhưng do Thanh bận nên đã nhờ người khác (H không rõ nhân thân) đến gặp H. Sau khi người thanh niên trên xem giấy tờ vay tiền của anh P thì đồng ý giúp. Khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi tìm được chỗ anh P đang ở tại lán rửa xe phía sau Bến xe Mỹ Đình (thuộc thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm) thì H, L cùng 04 thanh niên đến gặp anh P. Đến nơi, H và L nói chuyện và đòi tiền, bắt anh P viết giấy nợ nhưng anh P không đồng ý nên 04 thanh niên xông vào cầm dao (dài khoảng 60cm màu trắng) và chảo chống dính (đường kính khoảng 30cm) đe dọa và đánh anh P làm gãy cán chảo và bắt anh P đưa tiền; anh P móc ở túi quần trước bên phải ra 2.000.000 đồng đưa thì nhóm thanh niên yêu cầu anh P đưa giấy tờ tùy thân; anh P nói để ngoài ôtô nên nhóm thanh niên bắt anh Phạm Ngọc H (là phụ xe cho anh P) ra xe lấy giấy tờ. Khi anh Phạm Ngọc H mang giấy tờ xe vào thì thấy một thanh niên cầm dao dí vào cổ anh P; anh P bảo anh H gọi điện báo công an nên anh H lấy điện thoại Nokia 1280 của anh H ra để gọi thì bị 01 thanh niên trong nhóm giật lấy. Sau đó, nhóm thanh niên bắt anh P móc túi quần sau nhưng anh P không đồng ý nên cả nhóm đã đè anh P nằm sấp xuống phản và lục túi quần sau bên phải của anh P lấy được 30.000.000 đồng và 01 điện thoại Nokia 1280 sau đó ném cho H và L nhặt. Sau khi lấy tiền, tài sản cùng 01 số giấy tờ thì nhóm thanh niên trên cho tất cả vào 01 túi xách (lấy tại lán) đưa cho H cầm và cả nhóm bỏ đi ăn đêm. Tại quán ăn, H bỏ số tiền lấy được của anh P ra đếm được khoảng 30.000.000 đồng nhưng do lo sợ nên H đưa lại số tiền trên cùng 02 chiếc điện thoại cho 01 thanh niên trong nhóm để mang trả lại cho anh P. Cùng ngày, anh P đến Công an huyện Từ Liêm trình báo sự việc. Cơ quan điều tra đã thu giữ được vật chứng là 01 chiếc chảo đường kính 30cm và 01 cán chảo dài 25cm.

Kết luận định giá tài sản số 55/KLĐG ngày 28/3/2011 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Từ Liêm kết luận: “01 điện thoại Nokia 1280 trị giá 200.000 đồng; 01 điện thoại Nokia 1280 trị giá 200.000 đồng”.

Ngày 10/12/2010, Phạm Thị L đến Công an huyện Từ Liêm đầu thú. Ngày 20/12/2010, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Từ Liêm đã ra quyết định khởi tố bị can Phạm Thị L và Tào Thị Thanh H về tội “Cướp tài sản” theo Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999. Quá trình điều tra, Tào Thị Thanh H bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Từ Liêm đã ra quyết định truy nã số 06/CQĐT ngày 17/01/2011 và ngày 19/4/2011 ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Tào Thị Thanh H.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 181/2011/HS-ST ngày 16/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Phạm Thị L 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm 06 tháng về tội “Cướp tài sản”; buộc Phạm Thị Loan phải bồi thường cho anh Lê Anh P 30.000.000 đồng; giành quyền khởi kiện yêu cầu bồi hoàn cho Phạm Thị L đối với Tạo Thị Thanh H theo thủ tục tố tụng dân sự; quyết định xử lý vật chứng và án phí.

Ngày 24/02/2022, Tào Thị Thanh H bị PC02 - Công an tỉnh Lạng Sơn bắt theo Quyết định truy nã và bàn giao cho Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để điều tra, xử lý theo quy định.

Tại cơ quan điều tra, Tào Thị Thanh H khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Anh Phú khai sau khi vụ án được xét xử, anh đã được gia đình Phạm Thị L và Tào Thị Thanh H bồi thường toàn bộ số tiền và tài sản bị chiếm đoạt; hiện anh Phú không có yêu cầu gì về dân sự và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho Tào Thị Thanh H; anh Phạm Ngọc H không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Cáo trạng số 137/CT-VKSNTL ngày 05/7/2022 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm đã truy tố Tạo Thị Thanh H về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2017.

Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Tạo Thị Thanh H 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/8/2022, bị cáo Tạo Thị Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị được giảm hình phạt.

Tại phiên tòa: Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi vi phạm như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331; 332; 333; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự để chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình thức và nội dung, sửa bản án sơ thẩm, cụ thể: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt Tạo Thị Thanh H từ 04 đến 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án này, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo Tạo Thị Thanh H có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.

[2] Về nội dung: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/12/2010 tại lán rửa xe phía sau bến xe Mỹ Đình tại thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm (nay là phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội), Tào Thị Thanh H, Phạm Thị L cùng 04 đối tượng nam giới khác (Chưa xác định được nhân thân) đã có hành vi dùng dao và chảo chống dính đe dọa, đánh và cướp 32.000.000 đồng cùng chiếc điện thoại Nokia trị giá 200.000 đồng của anh Lê Anh P và cướp chiếc điện thoại Nokia 1280 trị giá 200.000 của anh Phạm Ngọc H; tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 32.400.000 đồng. Căn cứ Nghị quyết 41/2017/NQ-QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14, thì hành vi nêu trên của Tạo Thị Thanh H bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về đồng phạm tội “Cướp tài sản” với tình tiết tăng nặng định khung “Sử dụng phương tiện nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm; đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác; gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội; sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra nên việc khởi tố, truy tố và áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là cần thiết. Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại các phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; xét nguyên nhân sâu xa thì bị hại cũng là người có lỗi và đã có đơn đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo; về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; đây là các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự được xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; thái độ; nhân thân; và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên của Tạo Thị Thanh H thì Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm tù là quá nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa là thỏa đáng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tạo Thị Thanh H, sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:

1.1) Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 17; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Tạo Thị Thanh H: 05 (Năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/02/2022.

1.2) Bị cáo Tạo Thị Thanh H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 935/2022/HS-PT

Số hiệu:935/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về