Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 283/2022/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/6/2022, Quyết định hoãn Pên tòa số 52/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/6/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng H, sinh năm 1992 Địa chỉ: khu phố 1, thị trấn M, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Anh Lê Thanh P, sinh năm 1990 Địa chỉ: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Tại Pên tòa có mặt chị H và anh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/4/2022, bản khai của nguyên đơn chị Nguyễn Hồng H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Thanh P cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105 ngày 28/8/2014. Việc cưới nhau là do hai bên tự nguyện, không bị ai ép buộc và được gia đình hai bên đồng ý. Vợ chồng sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh P thường xuyên vắng nhà đi chơi với bạn bè, không quan tâm đến vợ con, có lần anh P dùng bạo lực đánh chị. Chị đã nhiều lần cho anh P cơ hội sửa chữa để vợ chồng hàn gắn nhưng anh P vẫn không thay đổi. Vợ chồng đã sống ly thân bốn năm. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nguyện vọng của chị là yêu cầu xin được ly hôn với anh Lê Thanh P.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016. Khi ly hôn chị yêu cầu được quyền nuôi con tên P. Về phần cấp dưỡng, tại đơn khởi kiện ngày 20/4/2022, chị H yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con là 3.000.000đồng/tháng nhưng tại bản khai ngày 10/5/2022 chị H thay đổi yêu cầu không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai ghi ngày 20/5/2022 anh Lê Thanh P trình bày: Anh và chị Nguyễn Hồng H cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105 ngày 28/8/2014. Việc cưới nhau là do hai bên tự nguyện, không bị ai ép buộc. Vợ chồng sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nay anh xác định không còn tình cảm với chị H nên anh cũng yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Hồng H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016. Khi ly hôn anh yêu cầu được quyền nuôi con tên P, không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết anh Lê Thanh P có mặt, đến khi hòa giải thì anh P vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng như lập biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại Pên tòa.

- Chị Nguyễn Hồng H giữ nguyên yêu cầu xin Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Thanh P; về con chung chị xin được nuôi con tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016, không yêu cầu anh P cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Anh Lê Thanh P: Đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Hồng H; về con chung anh xin được nuôi con tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016, không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại Pên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung với bị đơn anh Lê Thanh P. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của chị Nguyễn Hồng H và anh Lê Thanh P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105 ngày 28/8/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Hồng H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong cuộc sống, do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng không có tiếng nói chung, hay cải vã nhau, cuộc sống không có H phúc. Sau khi cưới, thời gian đầu vợ chồng chung sống H phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2021. Trong quá trình thụ lý giải quyết và tại Pên tòa, chị H và anh P đều thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết cho cả hai được ly hôn. Điều này chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Hồng H và anh Lê Thanh P thực tế đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục cuộc sống chung. Do vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Hồng H đối với anh Lê Thanh P là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Chị Nguyễn Hồng H và anh Lê Thanh P có 01 con chung tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016. Trong quá trình giải quyết chị H và anh P đều xin được quyền trực tiếp nuôi con. Tại Pên tòa, anh P trình bày, cháu P ở với anh nhưng người trực tiếp chăm sóc, đưa đón cháu P đi học là ông bà nội, tối cũng ngủ với ông bà nội, ngoài giờ đi làm ở Công ty thì một tuần anh có một hai lần đi nhậu hoặc chơi với bạn bè thì cháu P cũng ở nhà chơi với ông bà nội, lý do khi chị H bỏ về nhà cha mẹ ruột sống anh không cho chị H dẫn con theo vì con còn nhỏ mà ông bà nội rất thương cháu nên anh không cho chị H dẫn con theo; còn chị H trình bày, cháu P sống tại nhà ông bà nội với anh P, từ thứ hai đến thứ sáu thì ông bà nội là người trực tiếp đưa cháu P đi học, chăm sóc cho cháu P, còn thứ bảy và chủ nhật thì chị H đón cháu P về nhà cha mẹ ruột chăm sóc, chơi với cháu P. Chị H cho rằng, lý do chị để con cho anh P nuôi từ ngày chị và anh P sống ly thân là vì khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị về nhà cha mẹ ruột ở thì anh P không cho chị dẫn con theo, đe dọa tính mạng chị và con nên chị mới chấp nhận để con ở với anh P. Nay chị đã có chỗ ở và nghề nghiệp ổn định, lương thu nhập hàng tháng hơn 7.000.000đồng, đủ khả năng lo cho con đầy đủ về vật chất nên chị yêu cầu được quyền nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy: Con là con chung của vợ chồng, cha mẹ đều có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, lo lắng cho con; anh P xin nuôi cháu P nhưng lại chưa dành nhiều thời gian chăm sóc cháu P, tuy hiện nay cháu P ở với anh P nhưng người trực tiếp chăm sóc cháu P là ông bà nội nên không thể chấp nhận yêu cầu xin được quyền nuôi con của anh P. Đối với yêu cầu xin được quyền nuôi cháu P của chị H, xét thấy cháu P hiện nay chưa đủ bảy tuổi, cháu còn nhỏ rất cần tình thương của mẹ và hiện nay chị H cũng có nghề nghiệp ổn định, làm việc giờ hành chính nên có nhiều thời gian để chăm sóc cho cháu P, đủ khả năng lo cho cháu P đầy đủ về vật chất và tình thương của người mẹ. Do đó, yêu cầu của chị H xin được quyền trực tiếp nuôi cháu Lê Thanh P là có căn cứ chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Hồng H phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Anh Lê Thanh P không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, khoản 4 Điều 91, Điều 207, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 146, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Hồng H. Chị Nguyễn Hồng H được ly hôn với anh Lê Thanh P.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Thanh P - sinh ngày 05/01/2016 cho chị Nguyễn Hồng H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Anh Lê Thanh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Hồng H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp đủ 300.000đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0006226 ngày 27/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên không phải nộp nữa.

Anh Lê Thanh P không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có mặt tại Pên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 19/7/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về