Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 600/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 600/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 301/2022/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 6 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 595/2022/QĐST-HNGĐ, ngày  02 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị T, sinh năm: 1976; Địa chỉ: 130/41B đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ 

* Bị đơn: Ông Lê Thanh Phú G, sinh năm: 1972;

Địa chỉ: 130/41B đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Tân An, quận Ninh  Kiều, thành phố Cần Thơ.

(Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Huỳnh Thị T trình bày theo đơn khởi kiện ngày 29/04/2022 như sau:

Bà và ông Lê Thanh Phú G tự nguyện tiến đến hôn nhân, kết hôn và có giấy  đăng ký kết hôn vào ngày 29/3/1999 tại UBND phường An Hòa. Sau đó cả hai sống cùng nhau tại địa chỉ 130/41B đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Trong thời gian sống chung, bà và ông Giang có với nhau hai người con chung là Lê Huỳnh Gia H sinh ngày: 15/10/2000 và Lê Hoàng D , sinh ngày: 10/08/2006.

Cuộc sống hôn nhân thời gian đầu chung sống khá hạnh phúc. Nhưng càng về sau, cuộc sống vợ chồng ngày càng mâu thuẫn, bà và ông Giang không thể hòa hợp được nữa, giữa bà và ông Giang đã thiếu sự quan tâm chăm sóc và chia sẻ cho nhau trong cuộc sống. Mặc dù cả hai bên gia đình dàn xếp cho bà và ông Giang, chính bản thân của mỗi người cũng đã ngồi lại nói chuyện với nhau để tìm cách giải quyết. Nhưng cuối cùng vẫn không có kết quả. Cuộc sống càng về sau này càng nặng nề không còn cảm thấy hợp nhau nữa, sống chung chỉ làm khổ cho đôi bên. Hiện nay bà và ông Giang đang ly thân. Nhằm cứu vãn cuộc hôn nhân, mâu thuẫn không thể tháo gỡ và cũng như tránh để những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra do căng thẳng quá mức, bà làm đơn này kính mong Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xem xét và giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Thanh Phú Giang 

Về con chung: Ly hôn, bà yêu cầu được quyền nuôi cả hai con chung Lê  Huỳnh Gia H sinh ngày: 15/10/2000 và Lê Hoàng D , sinh ngày: 10/08/2006.

Về cấp dương nuôi con chung: Bà không yêu cầu ông Giang cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung: Quá trình chung sống vợ chồng tạo lập được 01 diện tích  đất 140m2  tọa  lạc  tại  đường Trần  Việt  Châu  (GCNQSDD  số  02577  cấp  ngày  21/03/2002)  và  01  căn  nhà  số  130/41B  Nguyễn  Thị  Minh  Khai,Phường  Tân An,Quận Ninh Kiều,TP.Cần Thơ - Bà xin được từ chối quyền thụ hưởng các tài sản nêu trên.

Về nợ chung:  Bà xác định không có nợ chung.

Nếu sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có yêu cầu.

* Bị đơn ông Lê Thanh Phú G vắng mặt không có ý kiến trình bày;

Tòa án tiến hành giải quyết vụ kiện theo quy định, do bị đơn vắng mặt không hòa giải được. Nên, tiến hành đưa vụ kiện ra xét xử công khai.

Tại phiên toà hôm nay: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày. Về hôn  nhận yêu cầu được ly hôn với ông Lê Thanh Phú G, yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung. Về cấp dưỡng bà không yêu cầu.

Đối với bị  đơn ông Lê Thanh Phú G mặt dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không rõ lý do là tự tước đi quyền và lợi ích của mình. Nên, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật và dành quyền kháng cáo đối với bị đơn theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều trình bày ý kiến: Do vụ  kiện Tòa án không có thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ, chứng cứ do đương sự cung cấp nên Viện kiểm sát không phải tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án ly hôn giữa công dân với công dân; bà Huỳnh Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con chung với ông Lê Thanh Phú G, nên xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Quan hệ tranh chấp này thuộc Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh. Bị đơn có nơi cư trú tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ nên thuộc thẩm   quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Xét việc vắng mặt bị đơn, bị đơn ông Lê Thanh Phú G  đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt, nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn. Nên, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227; Điều 228 và Điều  238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục xét xử vụ kiện theo quy định.

[3] Xét tính hợp pháp: Giữa bà Huỳnh Thị T và ông Lê Thanh Phú G tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn năm 1999 tại UBND phường An Hòa, nay phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 034, quyển số 01/1999, cấp ngày 29/3/1999. Nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Xét về chứng cứ và nội dung giải quyết vụ kiện: Nguyên đơn trình bày  nguyên đơn và bị đơn đã có thời gian dài chung sống vợ chồng với nhau, đồng thời giữa nguyên đơn và bị đơn cũng có nhiều mâu thuẫn kéo dài, do bất đồng quan điểm sống, không tìm được biện pháp nào để hàn gắn, cả hai đã sống ly thân nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn như lúc đầu, không thể chung sống với bị đơn được nữa nên yêu cầu ly hôn, đồng thời bà có ý kiến được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Hội đồng xét xử xét: Nguyên tắc của hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, các thành viên trong gia đình phải có sự quan tâm, chăm sóc,  giúp đỡ nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhưng giữa nguyên đơn và bị đơn đã không còn sự tin yêu, quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, về cách đối xử vợ chồng trong cuộc sống hàng ngày không hòa hợp, Hội đồng xét xử thấy quá trình Tòa án giải quyết đã triệu tập hợp lệ đối với bị đơn để hòa giải cho các bên đoàn tụ. Tuy nhiên, bị đơn vẫn vắng mặt, điều này chứng tỏ bị đơn không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này, nếu duy trì cuộc hôn nhân này mục đích hôn nhân vẫn không đạt được, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài; thấy tình trạng hôn nhân giữa ông - bà là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyên đơn bà Huỳnh Thị T yêu cầu xin ly hôn với bị đơn ông Lê Thanh Phú G là có cơ sở chấp nhận theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2014).

[5] Về con chung: Đương sự trình bày có hai con chung tên 1. Lê Huỳnh Gia  H (Giới tính: Nam), sinh ngày: 15/10/2000 (đã trưởng thành); 2. Lê Hoàng D (Giới tính: Nữ), sinh ngày: 10/08/2006. Ly hôn, bà Tâm có ý kiến trực tiếp nuôi dưỡng con chung; Lê Hoàng D trên bảy tuổi, có bản tự khai ghi nhận ý kiến “…nguyện vọng của con tiếp tục sống cùng mẹ của con…”. Đối với Lê Huỳnh Gia H, sinh năm: 2000 đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết. Căn cứ Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình giao con chung Lê Hoàng Dung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Hội đồng xét xử đã giải thích pháp luật về quyền của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Nguyên đơn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, bị đơn vắng mặt không có ý kiến yêu cầu về cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì quyền lợi của trẻ em, nếu các đương sự thực hiện việc trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên không tốt thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi quyền nuôi con   hoặc yêu cầu được thay đổi cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông G. Không ai  được quyền ngăn cản ông G thực hiện quyền này. [6] Về tài sản chung và nợ chung:

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định giao cho bị đơn. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong trường hợp này bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu.

[7] Xét, lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa là phù hợp với quy định pháp luật, không trái với đạo đức xã hội nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,  Căn cứ áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 174; Điều 175; Điều 179; Điều  227; Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 267; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 51, 56, 72, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (Quy định về án phí, lệ phí Tòa án), 

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Huỳnh Thị T với ông Lê Thanh Phú G như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị T được ly hôn với ông Lê Thanh Phú  G.

- Về con chung: Giao một con chung tên Lê Hoàng D (Giới tính: Nữ), sinh  ngày: 10/08/2006 cho bà Huỳnh Thị T trực tiếp nuôi dưỡng;

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Nguyên đơn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung và bị đơn vắng mặt không có ý kiến. Nên, không xem xét giải quyết.

Vì quyền lợi của trẻ em, nếu các đương sự thực hiện việc trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên không tốt thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi quyền nuôi con hoặc yêu cầu được thay đổi cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông G. Không ai có quyền ngăn cản ông G thực hiện quyền này.

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải  quyết.

Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi đương sự có tranh chấp và có đơn yêu cầu.

Về án phí:

- Bà Huỳnh Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu 0000561, ngày 17/05/2022 thành án phí. Đương sự đã nộp xong tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/09/2022) đối với nguyên đơn và kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ kiện theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 600/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:600/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về